Kết quả thí điểm hòa giải, đối thoại tại tòa án đã cho thấy cần khẩn trương luật hóa hoạt động này để triển khai chính thức. Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án vừa được Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh tổ chức góp ý.
Kết quả thí điểm hòa giải, đối thoại tại tòa án đã cho thấy cần khẩn trương luật hóa hoạt động này để triển khai chính thức. Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án vừa được Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh tổ chức góp ý.
Còn chồng chéo, chưa rõ
Các ý kiến tại hội nghị góp ý dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án do Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh vừa tổ chức đều cho rằng, khi có những tranh chấp phát sinh trong dân sự hay khiếu kiện hành chính, xét xử không phải là con đường duy nhất mà hòa giải, đối thoại là một biện pháp đã được áp dụng tại các nước, là xu thế chung. Dự thảo phù hợp với thực tiễn, phát huy được sự tự do ý chí, giảm chi phí cho đương sự, giải quyết nhanh, bảo đảm bí mật thông tin và hài hòa lợi ích giữa các bên trên nguyên tắc chia sẻ, cảm thông, “hòa giải thành, hai bên cùng thắng”. Tuy nhiên, dự thảo cũng cần được cân nhắc chỉnh sửa ở một số điểm.
Điều 1 của dự thảo quy định phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án. Theo ông Phan Gia Ngọc - Phó Chánh Văn phòng HĐND tỉnh, nhiệm vụ quy định ở khoản 2 có tính chất giống nội dung nêu ở tờ trình về sự cần thiết ban hành luật, đề nghị cân nhắc bỏ.
Trong quy định về thay đổi hòa giải viên, một số ý kiến cho rằng nội dung “có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ” lại... chưa rõ ràng. Để tránh có nhiều cách hiểu, cần bổ sung cụm từ “theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự” ở cuối câu.
Ông Trần Hữu Viên - Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh nêu, trong 11 quyền của hòa giải viên quy định ở khoản 1 Điều 14, 4 quyền cuối cùng chưa phù hợp, gần giống quy định về chế độ, chính sách cho hòa giải viên, như: được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, được cấp thẻ hòa giải viên, được hưởng thù lao... Ông Nguyễn Thành Trung - Trưởng ban Pháp chế HĐND tỉnh phân tích, quy định về bảo mật thông tin cũng chưa rõ ràng, vì Điều 4 quy định không được tiết lộ bí mật nhưng Điều 28 lại quy định biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại.
Cần bổ sung
Đặc biệt, nhiều ý kiến băn khoăn về Điều 10 - điều kiện bổ nhiệm hòa giải viên. Trong các đối tượng được liệt kê để xem xét thỏa mãn các điều kiện bổ nhiệm, ngoài thẩm phán, thẩm tra viên, kiểm sát viên... đã nghỉ hưu, còn có luật sư, luật gia, nhà chuyên môn khác. Tuy nhiên, các đối tượng này phải có ít nhất 10 năm kinh nghiệm. Trong khi đó, các luật sư phải am hiểu pháp luật, có khả năng thỏa thuận, hòa giải. Yêu cầu hòa giải viên có kinh nghiệm nhất định là đúng, nhưng điều kiện 10 năm kinh nghiệm là quá dài. Việc giảm bớt thời gian kinh nghiệm với luật sư sẽ góp phần huy động được nguồn lực lớn tham gia công tác hòa giải, đối thoại.
Một số ý kiến cũng đề nghị bỏ đối tượng “người có hiểu biết về phong tục, tập quán, có uy tín trong cộng đồng”, bởi rất khó định lượng khái niệm này. Tương tự, trong bổ nhiệm lại hòa giải viên, trường hợp “thuộc 10% hòa giải viên mà trong 2 năm hòa giải viên đó có mức độ hoàn thành nhiệm vụ thấp hơn so với các hòa giải viên khác tại nơi họ làm việc, cần được thay thế” cũng chưa rõ ràng; chưa kể trường hợp này cũng đã bao gồm trong trường hợp quy định ở điểm b: “không hoàn thành nhiệm vụ”.
Một số nội dung khác cũng cần được điều chỉnh, bổ sung. Ví dụ, Điều 7 liệt kê rất nhiều trách nhiệm của tòa án trong hoạt động hòa giải, đối thoại nhưng lại chưa quy định trách nhiệm của tòa trong chi trả thù lao cho hòa giải viên. Dự thảo nêu 2 hoạt động hòa giải và đối thoại nhưng lại chỉ xác định tư cách hòa giải viên, chưa có đối thoại viên. Tổ chức trung tâm hòa giải, đối thoại tại tòa án có giám đốc, phó giám đốc, hòa giải viên nhưng chưa có thư ký giúp việc. Trong khi đó, ở các trung tâm hòa giải, đối thoại thuộc các tòa án cấp quận ở khu vực đô thị lớn, lượng công việc phải hòa giải, đối thoại rất nhiều, hòa giải viên không thể vừa hòa giải vừa thụ lý, tống đạt giấy mời, thống kê, báo cáo số liệu, lưu trữ hồ sơ… Về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại tòa án và chỉ định hòa giải viên, Điều 18 có nêu: “Trong thời hạn 3 ngày làm việc,... người được thông báo tại khoản 3 điều này phải trả lời bằng văn bản...”. Quy định này gây khó nếu người được thông báo không biết chữ. Vì thế, đề nghị bổ sung tiếp “hoặc đến trực tiếp trình bày bằng lời nói và được thư ký tòa án ghi lại nội dung, điểm chỉ vào văn bản...”. Điều 27 thay câu “được coi là hòa giải, đối thoại không thành” bằng: “lập biên bản chấm dứt việc hòa giải, đối thoại, chuyển đơn cho tòa án giải quyết theo Điều 38”...
Các ý kiến trên đã được ông Lê Xuân Thân - Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh ghi nhận để trình Quốc hội.
NGUYỄN VŨ