11:03, 27/03/2023

Khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế biển

. PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi


Tài nguyên, môi trường và kinh tế biển xanh - ba mặt của một vấn đề


Nhờ các giá trị tài nguyên và chức năng môi trường đặc biệt mà đại dương và biển (chiếm tới 71% diện tích bề mặt Trái đất) được thừa nhận là "di sản chung" của loài người. Tức là, đại dương và biển trở thành "của để đời" cho các thế hệ và là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về lương thực, thực phẩm và các nguồn nguyên nhiên liệu, nhất là khi thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng thiếu tài nguyên thiên nhiên trên đất liền.

 

. PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi


Tài nguyên, môi trường và kinh tế biển xanh - ba mặt của một vấn đề


Nhờ các giá trị tài nguyên và chức năng môi trường đặc biệt mà đại dương và biển (chiếm tới 71% diện tích bề mặt Trái đất) được thừa nhận là “di sản chung” của loài người. Tức là, đại dương và biển trở thành “của để đời” cho các thế hệ và là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về lương thực, thực phẩm và các nguồn nguyên nhiên liệu, nhất là khi thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng thiếu tài nguyên thiên nhiên trên đất liền. Song, bên cạnh những cơ hội và lợi ích to lớn do đại dương và biển đem lại, con người đang khai thác tài nguyên biển thiếu hiệu quả, lơ là trách nhiệm bảo vệ môi trường biển. Môi trường biển và đại dương đang tiếp tục “bị đầu độc” bởi những nguồn thải khác nhau không qua xử lý; tài nguyên biển và đại dương bị khai thác quá mức, bị suy giảm và suy thoái, đôi chỗ xuống cấp nghiêm trọng không thể phục hồi hoặc phục hồi chậm. Hậu quả là kinh tế biển và đại dương (sau đây gọi tắt là kinh tế biển) trên thế giới cũng rơi vào tình trạng phát triển chưa hiệu quả, thiếu bền vững. Điều này đòi hỏi các nền kinh tế phải thay đổi tư duy phát triển, tăng cường hợp tác, đổi mới công nghệ và có các giải pháp bảo đảm phát triển bền vững.


Trong một thế giới chuyển đổi và toàn cầu hóa với vai trò đặc biệt quan trọng của biển và đại đương như ngày nay thì tính phụ thuộc lẫn nhau thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết. Vì thế, phát triển bền vững biển và đại dương nói chung và kinh tế biển nói riêng đã được xem là vấn đề sống còn của nhân loại, là phương thức giúp loài người giảm thiểu thảm hoạ biến đổi khí hậu nhờ khả năng thu và giữ “cacbon thừa” từ bầu khí quyển gây hiệu ứng nhà kính. Và, để phát triển bền vững kinh tế biển, các quốc gia và tổ chức quốc tế đều nhất trí rằng nó phải được xây dựng trên nền tảng của kinh tế biển xanh (Blue ocean economy) - một nền kinh tế phát triển dựa trên các nỗ lực bảo toàn nguồn vốn tự nhiên biển (Marine natural assets), lấy việc bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi trường biển làm “chất xúc tác” và làm nhiệm vụ trọng tâm. Cho nên, có thể nói: bảo tồn tài nguyên; bảo vệ môi trường biển và phát triển kinh tế biển xanh là ba mặt của một vấn đề trong phát triển bền vững kinh tế biển. Nói cách khác, phát triển kinh tế biển xanh, bền vững là cách tiếp cận để giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa phát triển và môi trường, giữa khai thác và bảo tồn nguồn lợi biển.


Hiểu đơn giản, kinh tế xanh là một nền kinh tế phát thải ít cacbon, tăng trưởng theo chiều sâu, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, thân thiện với môi trường, đổi mới công nghệ và tăng trưởng bền vững, tạo ra việc làm và công bằng xã hội, hướng vào cải thiện sinh kế của người dân. Tháng 6 năm 2012, tại Hội nghị Thượng đỉnh toàn cầu về PTBV (Rio+20) các quốc gia đã cùng nhau xác định đại dương và biển là một trong 6 nhóm vấn đề/lĩnh vực cần được giải quyết để thúc đẩy PTBV Trái đất . Hậu Rio+20, các quốc gia biển và quốc đảo ngày càng chú ý tới vai trò của đại đương, biến đổi đại dương và khí hậu, kinh tế biển xanh thông qua các cam kết tăng cường bảo vệ sức khỏe đại dương và sử dụng đại dương để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu . Đến nay, phát triển kinh tế biển xanh trở thành vấn đề ưu tiên toàn cầu, nhưng vẫn còn mới mẻ dù nó đã song tồn suốt thời gian qua.


Với thông điệp “Một đại dương thế giới khỏe mạnh sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho con người hôm nay và mai sau” , trên cơ sở 10 mục tiêu chính liên quan tới chức năng dịch vụ của đại dương , Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) đã xây dựng Bộ chỉ số đánh giá sức khỏe đại dương (Ocean Health Index-OHI). Bên cạnh đó, các hành động chính thúc đẩy phát triển kinh tế biển bền vững đã được các tổ chức quốc tế và quốc gia tích cực tham gia là: Quản lý ô nhiễm biển từ nguồn đất liền với cách tiếp cận “từ đất liền ra biển”; Quản lý tổng hợp biển và vùng bờ để tối ưu hoá lợi ích kinh tế và giảm thiểu xung đột sử dụng không gian giữa các ngành trong cùng vùng biển; quản lý hiệu quả mạng lưới các khu bảo tồn biển; Lượng giá các giá trị dịch vụ của các hệ thống tài nguyên biển, đại dương, bao gồm các hệ sinh thái; Lồng ghép các dịch vụ hệ sinh thái biển vào lập kế hoạch đầu tư phát triển; Phát triển năng lượng biển và đại dương, năng lượng tái tạo, an ninh thực phẩm và hàng hải xanh; Thúc đẩy bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; Đường cao tốc trên biển; phát triển kinh tế dựa vào bảo tồn nguồn vốn tự nhiên biển; Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ biển và đại dương trong phát triển kinh tế và xử lý môi trường biển; Triển khai quy hoạch không gian biển; Quản trị tốt biển và đại dương.


Phát triển kinh tế biển xanh, bền vững ở Việt Nam

Cơ hội chính  


- Tăng trưởng xanh và kinh tế biển xanh đang trở thành mối quan tâm toàn cầu và được xem là động lực để phục hồi, thúc đẩy kinh tế biển theo hướng hiệu quả và bền vững.


- Việt Nam có điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội thuận lợi, có tiềm năng và lợi thế cho phát triển kinh tế biển hướng tới tăng trưởng xanh và PTBV. Đặc biệt, vị thế của vùng ven biển, các đảo và quần đảo cho phép phát triển kinh tế biển, đảo xanh và bền vững.


- Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chiến lược về PTBV; Chiến lược PTBV kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến nămm 2045; các Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, về khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển; Cam kết quốc tế về phát thải ròng Zero; các luật (Quy hoạch, Thuỷ sản, Hàng hải, Dầu khí, Du lịch,…) được ban hành và đang có hiệu lực.


- Chính phủ đã ban hành các cơ chế, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch triển khai các nhiệm vụ liên quan đến quản lý biển đảo và vùng ven biển; đến phát triển kinh tế biển bền vững, đến giảm thiểu các chất thải vào biển, bao gồm rác thải nhựa, v.v..


- Nguồn lực để hỗ trợ xây dựng một nền kinh tế biển xanh của nước ta khá đa dạng và rất đáng kể, bao gồm nguồn nhân lực, tài lực (tài chính) và đầu tư khá lớn; cơ sở vật chất - kỹ thuật và cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế biển, cũng như bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên biển ở nước ta gần đây đã được quan tâm.


Thách thức chủ yếu 

 
Để chuyển từ kinh tế biển “nâu” sang “xanh”, nước ta vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức:


- Nhận thức về tăng trưởng xanh và kinh tế biển xanh của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân còn chưa đầy đủ, thậm chí rất khác biệt.


- Các ngành, các địa phương chưa chuẩn bị đủ điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển từ “nâu” sang “xanh”. Đặc biệt, trong điều kiện cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu, manh mún, thiết bị chưa đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Các ngành/lĩnh vực kinh tế biển mới và xanh (năng lượng biển tái tạo, năng lượng gió biển,…) chậm được triển khai thực hiện.


- Thiếu các số liệu và thông tin khoa học-công nghệ về nguồn vốn tự nhiên biển, đảo; thiếu các cơ sở dữ liệu biển, đảo và các hệ sinh thái làm cơ sở cho việc triển khai các hành động cụ thể liên quan tới phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta. Khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực biển chưa đáp ứng được yêu cầu của Đảng và Nhà nước và các nhu cầu thực tế trong bối cảnh Biển Đông và đòi hỏi của Cách mạng công nghiệp 4.0.


- Tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên biển, đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững, còn thủ công, lạc hậu. Chủ yếu vẫn ưu tiên khai thác tài nguyên biển ở dạng vật chất, không tái tạo, các giá trị chức năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo của các hệ thống tài nguyên biển còn ít được chú trọng, như: giá trị vị thế của các mảng không gian biển, ven biển và đảo; giá trị dịch vụ của các hệ sinh thái; thậm chí các giá trị văn hóa biển đặc trưng.


- Môi trường biển bị ô nhiễm và các hệ sinh thái biển bị suy thoái, chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển, cũng như trên các đảo có người sinh sống đổ vào biển ngày càng nhiều. Các vật chất nhận chìm, lấn biển, các sự cố môi trường biển (thải hoá chất độc hại, sự cố tràn dầu,…) gần đây có chiều hướng gia tăng và chưa đánh giá đúng tác động của nó.


- Đa dạng sinh học biển và nguồn lợi hải sản giảm sút rõ rệt, các hệ sinh thái biển quan trọng bị suy thoái, các nơi cư trú tự nhiên (habitat) của các loài ở ven biển quan trọng bị mất hoặc bị thu hẹp diện tích (khoảng 60%). Các quần đàn cá có xu hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven biển liên quan đến biến đổi khí hậu, xu thế tương tác sông - biển ở vùng cửa sông thay đổi đáng kể so với trước đây.


- Biển đảo và vùng ven biển nước ta vẫn chủ yếu được quản lý theo ngành (Sectoral management) thông qua các luật pháp và chính sách ngành. Phương thức quản lý tổng hợp và nguyên tắc thống nhất quản lý nhà nước về biển, đảo chậm được thể chế hóa, chưa khả thi. Điều này dẫn đến sự chồng chéo về quản lý trong các luật và chính sách ngành hiện có, hiệu lực thực thi pháp luật về biển thấp. Quy hoạch không gian biển (Marine spatial planning) quốc gia đã được đưa vào Luật Quy hoạch (2017) - công cụ quản lý biển theo không gian, nhưng đến nay vẫn chưa trình Chính phủ phê duyệt.


- Bên cạnh thiên tai biển, Việt Nam còn là một trong số ít nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu, biến đổi đại dương, trong đó có nước biển dâng, trước hết ở vùng ven biển và các đảo nhỏ. Bên cạnh đó, vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo phức tạp và kéo dài trên Biển Đông cũng ảnh hưởng không nhỏ đến các vấn đề an ninh phi truyền thống và phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta.


Khánh Hoà: hướng tới một nền kinh tế biển xanh, bền vững


Khánh Hòa là tỉnh ven biển “cực Đông” của lãnh thổ đất liền Việt Nam, nằm ở vùng Nam Trung Bộ, có lợi thế vượt trội về biển và tiềm năng phát triển kinh tế biển lớn: gần đường hàng hải quốc tế cắt qua Biển Đông, có thềm lục địa rất hẹp, sườn lục địa dốc cùng với khoảng 200 đảo lớn, nhỏ và các vịnh ven bờ nổi tiếng, cùng với quần đảo san hô Trường Sa ở ngoài khơi . Vùng biển, đảo và vùng ven biển Khánh Hoà giàu đa dạng sinh học, tiềm năng bảo tồn cao, đa dạng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển (sinh vật và phi sinh vật), bao gồm cả cảnh quan biển đảo - tiền đề cho phát triển đa dạng các ngành/lĩnh vực kinh tế biển, nhất là du lịch biển, cảng biển, đánh cá, nuôi hải sản,...Đặc biệt, Khánh Hoà có vị thế địa chiến lược đặc biệt của huyện đảo Trường Sa, quân cảng Cam Ranh, cảng biển nước sâu trung chuyển quốc tế Vân Phong, cùng với các giá trị toàn cầu của vịnh đẹp Nha Trang và là một trong 5 trung tâm nghề cá của cả nước; v.v... Bởi vậy, khai thác, sử dụng biển, đảo để phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền vững gắn với bảo đảm an ninh quốc phòng trên biển trong bối cảnh phức tạp ở Biển Đông đã được tỉnh Khánh Hoà đặt vào vị trí ưu tiên xuyên suốt, mang tầm vóc chiến lược.


Thời gian qua, các ngành/lĩnh vực kinh tế biển của Khánh Hòa đã có những bước phát triển mới, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách địa phương. Tuy nhiên, những kết quả chung đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh và chưa đạt được các mục tiêu đề ra; khả năng thích ứng của nền kinh tế còn thấp khi đại dịch COVID-19 xảy ra, chưa thu hút đầu tư được các ngành có hàm lượng công nghệ cao và có giá trị gia tăng lớn;...” .  Tiềm năng, lợi thế của tỉnh chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả, chưa tạo ra sự đột phá cho phát triển. Chính vì thế, Bộ Chính trị chủ trương và xác định mục tiêu : (i) Xây dựng và phát triển Khánh Hòa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030, phù hợp với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia về biển, đảo của Tổ quốc, trung tâm kết nối vùng, cửa ngõ chính ra Biển Đông của vùng Tây Nguyên và khu vực duyên hải Nam Trung Bộ; (ii) Xây dựng và phát triển Khánh Hòa phải trên cơ sở phát triển bền vững kinh tế biển và khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên biển. Khai thác và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế cho phát triển với kinh tế biển là nền tảng, du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn; công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao, dịch vụ logistics, công nghiệp năng lượng, kinh tế số là đột phá; (iii) Phát triển đột phá vùng ven biển; đẩy mạnh xây dựng và phát triển huyện đảo Trường Sa trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội trên biển của cả nước; là pháo đài vững chắc bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Khơi dậy khát vọng vươn lên của Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Khánh Hòa.


Để phát triển bền vững kinh tế biển Khánh Hòa theo tinh thần của Nghị quyết số 36/NQ-TW của Trung ương Đảng (2018) về Chiến lược PTBV kinh tế biển đến năm 2030 ; Nghị quyết số 09/NQ-TW về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn 2045; và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, cần quán triệt các yêu cầu cơ bản sau: (i) Duy trì được nguồn vốn tự nhiên biển; (ii) Bảo tồn được thiên nhiên biển, bao gồm cảnh quan biển; (iii) Bảo vệ được môi trường biển khỏi ô nhiễm và suy thoái; (iv) Phát triển hiệu quả kinh tế biển dựa trên nền tảng của kinh tế biển xanh và kinh tế tuần hoàn; (v) Thực thi nghiêm túc pháp luật về biển và kinh tế biển; (vi) Truyền thông nâng cao nhận thức và trang bị kiến thức cho các tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp và cộng đồng dân cư ven biển và trên đảo.   


Ngoài ra, để góp phần phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030 cũng cần triển khai tốt Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 với 17 Mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế, bao gồm Mục tiêu số 14 về sử dụng và bảo tồn bền vững biển và tài nguyên biển” . Bên cạnh việc cụ thể hóa các bài học kinh nghiệm quốc tế, và chủ trương, giải pháp lớn của Đảng và Chính phủ nói trên, thì việc quy hoạch khai thác, sử dụng hợp lý và quản lý hiệu quả tài nguyên - môi trường biển gắn với bảo vệ, giữ vững chủ quyền, an ninh biển đảo vừa là nhiệm vụ vừa là những nhóm giải pháp cần chú ý trong thời gian tới. Đặc biệt, cần chú trọng sử dụng hợp lý vùng ven biển, các đảo và các thủy vực ven bờ (đầm, vũng, vịnh) phù hợp với bản chất tự nhiên và thế mạnh của từng loại hình (thuận thiên). Dưới đây là một số nhóm giải pháp/biện pháp cụ thể:


- Bảo toàn nguồn vốn tự nhiên biển


Khánh Hòa có tiềm năng bảo tồn biển rất cao, và khu bảo tồn biển (KBTB) được xem là một công cụ quản lý hữu hiệu để bảo toàn nguồn vốn tự nhiên và tính bền vững của các vùng biển, để duy trì và phát triển các ngành kinh tế biển dựa vào bảo tồn thiên nhiên, như nghề cá, du lịch và các dịch vụ đi kèm. Cho nên, quản lý tốt các KBTB sẽ tạo thêm hiệu ứng phục hồi và hiệu ứng phát tán (hiệu ứng tràn - Spillover Effect) các chất dinh dưỡng và nguồn giống thủy sản ra vùng biển chung quanh. Trước mắt, Khánh Hòa cần triển khai thực hiện tốt Kế hoạch phục hồi vịnh Nha Trang đến năm 2030 , và nhân rộng mô hình Rạn Trào ở cấp cộng đồng. Cần mở rộng diện tích bảo tồn biển ở vùng biển ven bờ kết hợp du lịch sinh thái biển và nghề cá giải trí. Triển khai công tác quản lý KBTB đảo Nam Yết thuộc huyện đảo Trường Sa gắn với hoạt động quốc phòng, an ninh. Áp dụng rộng rãi mô hình “Đồng quản lý nguồn lợi thủy sản” theo tinh thần của Luật Thủy sản 2017.  

 
- Quản lý tổng hợp biển và vùng bờ biển theo cách tiếp cận không gian


Các hệ thống tài nguyên biển, đảo và vùng ven biển cung cấp tiềm năng phát triển đa ngành và có tính liên kết. Các hoạt động phát triển ở ven biển và trên biển đều có tác động trực tiếp hay gián tiếp xuống biển. Cho nên, để bảo đảm chất lượng môi trường biển cho phát triển bền vững kinh tế biển, tỉnh phải quản lý từ nguồn thải/gây ra ô nhiễm thông qua cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng và liên cơ quan với sự tham gia của các bên liên quan (Stakeholder) và cộng đồng địa phương. Công cụ chính hỗ trợ quá trình này là phân vùng chức năng (Function zoning) sử dụng không gian vùng ven biển và vùng biển, đảo để tăng tính tương thích trong khai thác, sử dụng cùng một vùng biển, giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích và xung đột không gian trong khai thác giữa các bên. Tiến hành “Quản lý tổng hợp lưu vực sông và vùng bờ”, bao gồm kiểm soát chất thải, trong đó có rác thải nhựa theo góc nhìn “từ nguồn ra biển” (from Source to Sea – S2S) . Luật Quy hoạch (2017) ra đời tạo căn cứ pháp lý để tiếp tục thúc đẩy việc triển khai áp dụng “Quy hoạch không gian biển quốc gia”, tỉnh nên chủ động tham gia sớm vào quá trình quy hoạch này. Đây cũng là phương thức quản lý biển và kinh tế biển theo không gian để thực hiện gắn kết với Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG) số 6 (nước ngọt) và 14 (biển) mà Việt Nam cam kết thực hiện đến năm 2030.


- Phục hồi, tái tạo các hệ sinh thái biển - ven biển đã bị suy thoái


Tập trung vào trồng mới và khôi phục các hệ sinh thái biển (rừng ngập mặn, rạn san hô và thảm cỏ biển đã bị suy thoái nhằm tái tạo, bảo vệ khu vực sinh sản và phát triển của các loài sinh vật biển, trong đó có nhiều đặc hải sản, cũng như bảo tồn các giá trị tự nhiên của chúng phục vụ mục đích phát triển du lịch sinh thái, v.v. Các địa phương trong tỉnh có rừng ngập mặn tăng cường vai trò quản lý nhà nước của các cấp chính quyền địa phương, đặc biệt là chính quyền cơ sở và cơ quan chuyên ngành lâm nghiệp, môi trường trong công tác bảo vệ và phát triển hiệu quả hệ sinh thái ven biển. Đây cũng là nhóm giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, ưu tiên thích ứng và giảm thiểu tác động.  


Thực hiện các dự án bảo tồn và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, các dự án trồng mới và tái sinh rừng ngập mặn (rừng tự nhiên, rừng phòng hộ ven biển); nghiêm cấm khai thác bãi bồi cửa sông để nuôi trồng thủy sản hoặc bán cát gây hủy hoại diễn thế tự nhiên bồi tụ và phát triển của rừng ngập mặn non trẻ. Thực hiện tốt phong trào trồng cây để tăng nhanh diện tích phủ xanh của thảm rừng ngập mặn ven biển và thảm thục vật trên đảo để giữ nước, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu. Tương tự như vậy, cần ưu tiên đầu tư phục hồi các rạn san hô, thảm cỏ biển để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp (IUU).


-    Bảo tồn đa dạng sinh học biển, đảo gắn với du lịch sinh thái và sinh kế bền vững


Để bảo tồn được đa dạng sinh học biển, đảo cần có phương án sử dụng hợp lý các lợi ích có được từ việc bảo tồn đa dạng sinh học trong các vùng biển và trên các đảo, như: phát triển du lịch sinh thái cấp cộng đồng, v.v.. Thông qua đó, các cộng đồng dân cư được tham gia các hoạt động bảo tồn và được sử dụng các giá trị có được từ bảo tồn để chuyển đổi nghề nghiệp và cải thiện sinh kế bền vững cho họ. Vì trên một số đảo ven bờ ở Khánh Hòa đều có các cụm dân cư sinh sống, cho nên cần chú ý cải thiện sinh kế và mức sống của người dân sống trong và lân cận các khu vực biển, đảo. Bảo tồn đa dạng sinh học biển, đảo gắn với bảo vệ môi trường, trước hết là rác thải nhựa, thu gom, phân loại và tổ chức vận chuyển vào bờ, không được vứt ra bãi biển và xuống biển.


- Nâng cao nhận thức về tài nguyên, môi trường và chủ quyền biển, đảo


Tuyên truyền, giáo dục thực sự là động lực cho phát triển kinh tế biển bền vững, cải thiện sinh kế và hỗ trợ xoá đói giảm nghèo cho các cộng đồng địa phương ven biển và trên các đảo, góp phần giữ vững môi trường hòa bình trên Biển Đông. Cho nên, công tác tuyên truyền, giáo dục về tài nguyên, môi trường và chủ quyền biển, đảo cần được tỉnh quan tâm, tiến hành thường xuyên cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt cho cộng đồng với các hình thức đa dạng, hiệu quả thực sự.


- Một số giải pháp khác:


+ Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ biển đạt trình độ khu vực và quốc tế; đào tạo nguồn nhân lực biển có chất lượng cao, có kỹ năng nghề biển đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, phục vụ hiệu quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế biển đất nước. Đặc biệt chú ý đào tạo và hỗ trợ cho con em ngư dân và người lao động trên biển nghèo vượt khó.


+ Đẩy mạnh và mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực liên quan đến khoa học và công nghệ sạch hơn, thân thiện với môi trường biển, năng lượng biển tái tạo, các mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu.


+ Chuyển dần từ kinh tế “tuyến tính”, nhiều chất thải, phế thải, hủy hoại tự nhiên sang kinh tế “tuần hoàn” với các chất thải, phế thải được tái sử dụng và trả lại thiên nhiên.


+ Rà soát, bố trí lại không gian phát triển và bảo tồn để bảo đảm tính liên kết và giảm thiểu xung đột lợi ích trong phát triển kinh tế biển ngay từ giai đoạn sớm của quá trình phát triển.           

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                        
+ Lồng ghép các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng vào các dự án phát triển ở vùng ven biển, biển, đảo; phòng chống hiệu quả và giảm thiểu thiệt hại do các thảm họa thiên tai, sự cố môi trường biển, ven biển, đảo.


+ Ngăn ngừa suy thoái và phục hồi các hệ sinh thái quan trọng, như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển đã bị suy thoái gắn với bảo tồn, phục hồi hiệu quả đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy sản, nguồn giống hải sản tự nhiên,... đang giảm sút.


+ Gắn phát triển kinh tế biển xanh với xóa đói, giảm nghèo bền vững cho các cộng đồng dân cư ven biển, trên các đảo của tỉnh. Chú trọng giải quyết đồng bộ ba vấn đề: Ngư dân, Ngư nghiệp và Ngư trường để hướng tới nghề cá bền vững và có trách nhiệm.


+ Phát huy các giá trị văn hóa biển đặc trưng Việt Nam trong xây dựng và phát triển kinh tế biển xanh ở tỉnh Khánh Hoà.

N.C.H