Theo bác sĩ Nguyễn Ngọc Huy, Phó trưởng Khoa Nhi - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, bệnh tay chân miệng xảy ra lẻ tẻ quanh năm, nhưng thường gây dịch vào những tháng Hè (từ tháng 3 đến tháng 5) và Thu (từ tháng 7 đến tháng 9).
Theo bác sĩ Nguyễn Ngọc Huy, Phó trưởng Khoa Nhi - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, bệnh tay chân miệng (TCM) xảy ra lẻ tẻ quanh năm, nhưng thường gây dịch vào những tháng Hè (từ tháng 3 đến tháng 5) và Thu (từ tháng 7 đến tháng 9). Tại Việt Nam, bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tuổi và rất ít thấy ở trẻ trên 5 tuổi. Thường thì bệnh TCM không gây biến chứng nghiêm trọng, nhưng người dân không nên chủ quan vì một khi đã biến chứng, bệnh TCM có thể là thủ phạm làm chết người.
Bác sĩ Huy cho biết, bệnh TCM là một bệnh nhiễm virus cấp với các biểu hiện lâm sàng thường gặp gồm sốt và tổn thương da, niêm mạc dạng bọng nước xuất hiện ở miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, đầu gối, mông và/hoặc cơ quan sinh dục. Các bóng nước ở miệng thường diễn tiến nhanh đến loét. Tác nhân gây bệnh TCM là virus thuộc nhóm enteroviruses (virus đường ruột), thường gặp nhất là Coxsackie virus A16; đôi khi do Enterovirus 71 hoặc một loại virus khác trong nhóm Enteroviruses.
Bệnh xảy ra lẻ tẻ quanh năm, thường gây dịch vào những tháng Hè (từ tháng 3 đến tháng 5) và Thu (từ tháng 7 đến tháng 9 ). Tại Việt Nam, bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tuổi và rất ít thấy ở trẻ trên 5 tuổi. Tất cả mọi người đều có thể nhiễm virus nhưng không phải ai nhiễm virus cũng đều bị bệnh. Trẻ nhũ nhi, trẻ em thường dễ bị nhiễm virus và biểu hiện bệnh nhất vì chưa có kháng thể chống lại bệnh này. Nhiễm bệnh có thể tạo nên kháng thể đặc hiệu chống virus gây bệnh song vẫn có thể mắc bệnh lại do một chủng virus khác gây nên, do vậy trong một đợt dịch bệnh, trẻ có thể bị mắc bệnh nhiều lần cho đến khi 5 tuổi mới có miễn dịch hoàn toàn với bệnh. Nhiễm virus ruột trong thai kỳ thường gây nên bệnh nhẹ nhàng hoặc không triệu chứng. Chưa có bằng chứng cho thấy nhiễm virus trong quá trình mang thai gây nên các hậu quả xấu lên thai như sẩy thai, thai chết lưu hay dị tật bẩm sinh.
Virus gây bệnh lây lan rất nhanh qua đường miệng. Trong những đợt dịch, bệnh có thể lây nhanh từ trẻ này sang trẻ khác qua các chất tiết mũi miệng, phân hay nước bọt của trẻ bệnh: Trẻ lành tiếp xúc trực tiếp với trẻ bệnh, bị nhiễm bệnh do nuốt phải nước bọt của trẻ bệnh văng ra trong lúc ho, hắt hơi; hoặc do trẻ khỏe mạnh cầm nắm đồ chơi, sờ chạm vào sàn nhà bị vấy nước bọt, chất tiết mũi họng của trẻ bệnh. Ngoài ra, bệnh còn lây cho trẻ qua bàn tay chăm sóc của những người chăm sóc trẻ. Trong tuần lễ đầu tiên của bệnh, bệnh rất dễ lây cho người khác.
Nên đưa trẻ đến cơ sở y tế để được điều trị kịp thời khi có biến chứng. |
Thời gian ủ bệnh khoảng 5 - 7 ngày, trẻ thường than phiền đau họng hoặc miệng, mỏi mệt trong người, thỉnh thoảng có kèm theo ói, tiêu chảy phân không đàm, máu. Sốt 38 - 39oC có thể xuất hiện và kéo dài 24 - 48 giờ. Sau đó, ban xuất hiện dưới dạng ban nhỏ, hoặc bóng nước trên nền hồng ban, vị trí thường gặp là lòng bàn tay - chân, bàn tay, bàn chân, đầu gối, mông, cơ quan sinh dục, ở niêm mạc miệng, lưỡi và/hoặc vòm khẩu cái cứng. Các sang thương niêm mạc miệng tiến triển nhanh chóng thành bọng nước và được bao bọc bởi quầng hồng ban. Các bọng nước này nhanh chóng hình thành vết loét làm trẻ khó ăn uống, hay quấy khóc, chảy nước bọt liên tục. Bọng nước có kích thước nhỏ 2 - 3mm, dịch trong hơi đục, khi lành không để lại sẹo. Bọng nước vùng mông và gối thường xuất hiện trên nền hồng ban. Bóng nước lòng bàn tay và lòng bàn chân có thể lồi lên trên da, sờ có cảm giác cộm hay ẩn dưới da, thường ấn không đau. Thể không điển hình của bệnh là bọng nước rất ít xen kẽ với hồng ban, một số trường hợp chỉ biểu hiện hồng ban và không có biểu hiện bọng nước hoặc chỉ có biểu hiện loét miệng đơn thuần.
Bệnh chia làm 4 độ: Độ I: chỉ có vết loét ở miệng và/hoặc ban ở da. Độ II: kèm theo rung giật cơ, bứt rứt, giật mình, chới với. Độ III: kèm theo yếu liệt chi, liệt dây thần kinh sọ, co giật, rối loạn tri giác. Độ IV: suy hô hấp, phù phổi cấp, tăng huyết áp, trụy tim mạch. Các biến chứng của bệnh thường gặp là viêm màng não, viêm não màng não, liệt mềm cấp, viêm cơ tim, phù phổi cấp do thần kinh. Các biến chứng có thể phối hợp với nhau trên cùng 1 bệnh nhân và diễn tiến rất nhanh, có thể tử vong trong 24 giờ.
Biểu hiện biến chứng viêm não màng não: Không có biểu hiện mê sâu. Biểu hiện ban đầu bằng các triệu chứng quấy khóc, ngủ nhiều, hoảng hốt hay giật mình run chi, yếu chi, đứng không vững, đi loạng choạng. Diễn tiến rất nhanh đến co giật, khó thở, suy hô hấp, rối loạn vận mạch, sốc thần kinh. Lưu ý: biến chứng viêm não màng não vẫn có thể xuất hiện khi các nốt phỏng nước trên da trẻ đã khô và đóng vảy. Chính vì vậy, các bậc phụ huynh cần chú ý phát hiện sớm các dấu hiệu trên và đưa trẻ đến bệnh viện trong vòng 6 giờ đầu sau khi xuất hiện các biểu hiện của biến chứng để được cấp cứu kịp thời.
Bệnh TCM hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, việc điều trị bệnh chủ yếu là điều trị triệu chứng giảm sốt, đau nhức do các vết loét gây ra, kết hợp với tăng sức đề kháng. Nên đưa trẻ đến khám bệnh tại các cơ sở y tế. Nếu trẻ được chỉ định chăm sóc tại nhà, phụ huynh cần: Vệ sinh răng miệng và thân thể, tránh làm nhiễm trùng các bọng nước; giảm đau, hạ sốt bằng cách lau mình trẻ bằng nước ấm, dùng thuốc hạ sốt Paracetamol liều 10 - 15mg/kg/lần; nghỉ ngơi, hạn chế vận động, tăng cường dinh dưỡng, cho ăn thức ăn lỏng, mềm, uống nhiều nước nhất là nước hoa quả; tuyệt đối không cạy vỡ các bóng nước để tránh nhiễm trùng; theo dõi sát để phát hiện các dấu hiệu: dễ giật mình, hoảng hốt, run chi, gồng tự hết, đi loạng choạng, chới với, co giật, da nổi bông, nôn ói nhiều, sốt cao. Khi có các biểu hiện trên cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay.
Tuy bệnh TCM chưa có vắc-xin phòng bệnh, nhưng có thể làm giảm nguy cơ lây nhiễm bệnh bằng việc thực hiện vệ sinh tốt: Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước chảy, nhất là trước và sau khi nấu ăn, trước khi ăn và sau khi đi tiêu. Nếu chăm sóc trẻ bị bệnh thì cần lưu ý rửa tay sau mỗi lần thay tã, làm vệ sinh cho trẻ. Rửa sạch các dụng cụ, vật dụng, đồ chơi, sàn nhà bằng nước và xà phòng, sau đó khử trùng bằng cloramin B 5%. Đeo khẩu trang mũi, miệng khi hắt hơi hoặc ho. Nên tránh tiếp xúc gần gũi (hôn, ôm, dùng chung thức ăn, chén bát…) với trẻ bị bệnh TCM, đồng thời cách ly trẻ bệnh trong tuần lễ đầu tiên.
NGỌC KHÁNH