08:02, 05/02/2011

Người đi tìm hình của nước (*)

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc hành trình huyền thoại. Trong chuyến hành trình 30 năm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam (từ năm 1911 đến 1941), Người đã tới nhiều quốc gia khác nhau để trực tiếp quan sát những chuyển biến tại các nước châu Phi, châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ và Trung Đông “để về giúp đồng bào mình”, ...

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc hành trình huyền thoại. Trong chuyến hành trình 30 năm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam (từ năm 1911 đến 1941), Người đã tới nhiều quốc gia khác nhau để trực tiếp quan sát những chuyển biến tại các nước châu Phi, châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ và Trung Đông “để về giúp đồng bào mình”, một việc mà không lãnh tụ nào khác làm được trong thế kỷ XX. Năm nay tròn 100 năm kể từ ngày Người ra đi tìm đường cứu nước, đọc lại những vần thơ viết về hành trình tìm đường cứu nước của Người, mỗi người dân Việt Nam lại rưng rưng nước mắt vì nỗi kính phục, nhớ thương…

Hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ đã trở thành huyền thoại khắc sâu trong tâm trí của những người dân Việt Nam. Đã có rất nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật đề cập đến con đường lịch sử ấy, nhưng thành công hơn cả chính là bài thơ Người đi tìm hình của nước của nhà thơ Chế Lan Viên. 

Đất nước đẹp vô cùng, nhưng Bác phải ra đi…  Mỗi lần đọc những dòng thơ ấy, trước mắt ta như thấy giây phút thiêng liêng: người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành xuống con tàu Đô đốc Latouche-Trévil ra đi tìm đường cứu nước ngày 5-6-1911, tại bến cảng Nhà Rồng (TP. Hồ Chí Minh). Với niềm xúc động chân thành, nhà thơ Chế Lan Viên đã cảm nhận sâu sắc nỗi lòng của Người trong những ngày lênh đênh trên đại dương bao la. Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ?/Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương!/Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở/Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương. Người ra đi nhưng lòng vẫn mang nặng tình đất nước, vẫn canh cánh trong lòng vì vận mệnh dân tộc. Nỗi nhớ nước, nhớ quê nhà pha lẫn nỗi đau thương da diết vì mất nước đã thấm sâu vào lòng người xa xứ. Sóng nước nơi nào cũng là sóng nước. Nhưng trái tim có lý lẽ riêng: đã không phải nước trời quê hương thì tất cả đều xa lạ: Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương? Với những câu thơ giàu cảm xúc ấy, tưởng như có thể thấy hình ảnh của Người trằn trọc không ngủ với nỗi nhớ quê hương trong những đêm dài lênh đênh nơi xứ lạ. Tàu càng đi xa, tiếng sóng càng trở nên xa lạ, nỗi đau như tăng dần lên. Trong cuộc hành trình của mình, Người đã trải qua nhiều công việc cực nhọc như làm bồi bàn, lao công quét tuyết, phụ bếp cho khách sạn… Vất vả là vậy nhưng Người chưa bao giờ thôi nghĩ đến vận mệnh của đất nước: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa. Mỗi lần đọc câu thơ giàu hình ảnh ấy, người đọc lại rưng rưng nước mắt vì cảm phục tấm lòng yêu nước của Bác. Đang sống giữa châu Âu tuyết trắng, giữa những hàng cây trơ trụi lá vàng xứ lạnh, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn Bác, trong tiềm thức của Bác, làng quê Việt Nam với bốn mùa xanh tươi vẫn hiện về đêm đêm. Người ăn không ngon, ngủ không yên mỗi khi nghĩ về Tổ quốc đang chịu nhiều thương đau. Trái tim giàu lòng yêu nước của Người cùng đau với nỗi đau của dân tộc trong cảnh nước mất, nhà tan.

Hành trình của Bác Hồ là hành trình của một con người lớn lao đang “tìm đường đi cho dân tộc theo đi”. Có lẽ không một nhà thơ nào có thể viết hay hơn Chế Lan Viên về vai trò, ý nghĩa quan trọng của hành trình “đi tìm hình của nước” của Người: Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất/Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai/Thế đi đứng của toàn dân tộc/Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người. Người đã trải qua “năm châu bốn bể” với nhiều nỗi gian truân vất vả. Người đã “đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi”, đi khắp “những trời tự do, những trời nô lệ”, “những con đường cách mạng đang tìm đi”… với mong ước tìm con đường cứu nước.

Sự thành bại của hành trình đi tìm đường cứu nước của Người liên quan đến vận mệnh của toàn dân tộc. Khi đọc được Luận cương của Lê-nin, ngồi trong căn nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17, ngoại ô Paris, Người đã phát khóc và reo lên như đang nói với đồng bào của mình: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Nhà thơ Chế Lan Viên đã có những “thước phim cận cảnh” đặc tả niềm hạnh phúc vô bờ của Bác khi bắt gặp được chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cũng là tìm ra con đường giải phóng dân tộc khỏi áp bức, nô lệ: Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc/Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin/Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp/Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin/Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc/“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”/Hình của Đảng lồng trong hình của Nước/Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười. Với những câu thơ giàu hình ảnh, nhịp thơ gấp gáp, người đọc cảm nhận được niềm hạnh phúc của Người khi tiếp nhận Luận cương Lê-nin, một giờ phút trọng đại không chỉ đối với cá nhân Người mà còn với cả số phận một dân tộc. Giờ phút ấy thật thiêng liêng và chứa đựng trong đó cái huyền bí của sự hóa thân sinh nở của đất nước.

Hình của Đảng lồng trong hình của Nước/Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười, dường như trong câu thơ đầy tính gợi hình ấy không chỉ có tiếng khóc của Bác Hồ vì nỗi vui mừng đã tìm được đường cứu nước, mà còn có tiếng khóc chào đời của một đất nước mới. Chẳng phải ngay khi ấy, trong tâm trí của Người đã tượng hình một đất nước Việt Nam mới với những dáng nét đầu tiên: Bác thấy: Dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt/Ruộng theo trâu về lại với người cày/Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, biển bạc…/Không còn người bỏ xác bên đường ray/ Giặc đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát/Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân/Những kẻ quê mùa đã thành trí thức/Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng.

Tìm được đường cứu nước, nhưng con đường cách mạng của Người còn nhiều chông gai, gian khổ. Và phải đến năm 1941, tròn 30 năm từ ngày ra đi tìm đường cứu nước, Người mới được trở về Tổ quốc thân yêu. Luận cương của Lê-nin theo Người về quê Việt/Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi/Kìa! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất - Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai. Bước chân đầu tiên về đất mẹ cũng là giây phút Người lắng nghe sự sống của sinh thể đất nước đang phôi thai trong lòng mình. Người về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cả thiên nhiên đất trời như reo vui: Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt/Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/Bác về… im lặng. Con chim hót/Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ (trích Theo chân Bác của Tố Hữu). Và hơn 4 năm sau đó, nước Việt Nam độc lập đã ra đời với câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

THÀNH NGUYỄN

-----------------------------------------------------

(*) Tên bài thơ của nhà thơ Chế Lan Viên.