Giữa những ngày tháng 4 lịch sử, chúng tôi may mắn được gặp và nghe lại hồi ức của những người lính năm xưa từng tham gia chiến đấu và chứng kiến thời khắc lịch sử trọng đại của dân tộc…
Giữa những ngày tháng 4 lịch sử, chúng tôi may mắn được gặp và nghe lại hồi ức của những người lính năm xưa từng tham gia chiến đấu và chứng kiến thời khắc lịch sử trọng đại của dân tộc…
Người tiếp quản Trường Sa ngày ấy
Vào những ngày này cách đây 38 năm, thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Quân chủng Hải quân đã khẩn trương chuẩn bị lực lượng, bất ngờ tấn công giải phóng quần đảo Trường Sa - một quần đảo có ý nghĩa chiến lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế của đất nước.
Đại tá Nguyễn Quang Lâm (thứ 3 từ trái sang) gặp lại những người đồng đội Sư đoàn 10 năm xưa. |
Rạng sáng 14-4-1975, các tàu HQ673, HQ674, HQ675 của Lữ đoàn 125 (Quân chủng Hải quân) mang theo lực lượng đặc công Hải quân bí mật đổ bộ chiến đấu giải phóng đảo Song Tử Tây, làm cho hệ thống phòng thủ của địch trên quần đảo Trường Sa lâm vào thế khủng hoảng nghiêm trọng. Lấy Song Tử Tây làm bàn đạp, ta tiến đánh giải phóng các đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn; và đến 9 giờ ngày 29-4-1975 giải phóng đảo Trường Sa Lớn, làm chủ hoàn toàn quần đảo Trường Sa.
Đại tá Nguyễn Văn Dân (hiện nay ở đường Dã Tượng, TP. Nha Trang) - một trong những người đã tham gia tiếp quản Trường Sa ngày ấy nhớ lại: “Lúc đó, tôi đang là trợ lý tham mưu của Khu vực 2 Sông Mã thì được lệnh cấp trên chỉ đạo tham gia Đoàn công tác tiếp quản căn cứ Cam Ranh. Vào đến Đà Nẵng, đoàn mới biết chủ trương của trên là phải bí mật, nhanh chóng giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa đang do quân Sài Gòn đóng giữ, kiên quyết không để lực lượng nào lợi dụng tình hình lúc đó chiếm đóng”.
Đại tá Nguyễn Quang Lâm vui mừng khi gặp lại Đại tá Võ Hồng Quân tại tượng đài chiến thắng TP. Nha Trang. |
Khoảng giữa tháng 4-1975, 2 chiếc tàu mang số hiệu 679, 680 xuất bến tại Cam Ranh. Để tránh sự nhòm ngó của địch, 2 chiếc tàu được ngụy trang, giả dạng tàu đánh cá tiến ra Trường Sa. Trên tàu lúc đó, ngoài trang thiết bị cần thiết, đoàn còn mang hàng chục tấn nhu yếu phẩm để cung ứng cho các đảo. Sau 2 ngày lênh đênh trên biển, các thành viên trong đoàn tiếp quản đảo đầu tiên là Song Tử Tây. Đảo được lực lượng của Đoàn 126 và Đoàn 125 Hải quân, do Trung tá Mai Năng - Đoàn trưởng Đoàn 126 Hải quân chỉ huy, giải phóng sáng 14-4. Lúc đó, cơ sở vật chất trên đảo rất sơ sài, chỉ vài căn nhà bán âm bán dương rất thấp, đồ ăn chủ yếu là cơm sấy và thịt hộp. Sau 2 ngày lưu lại trên đảo, anh em trong đoàn mỗi người mỗi việc theo chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức lại công tác bảo vệ. Sau khi ổn định tổ chức tại đảo Song Tử Tây, đoàn tiếp quản đảo Sơn Ca sau 1 ngày đảo này được lực lượng ta trên tàu 641 giải phóng. Tại đây, đoàn đã tiếp nhận 16 tù binh Sài Gòn để đưa về Cam Ranh. Sau đó, đoàn tiếp tục tới các đảo Nam Yết, Sinh Tồn, đến ngày 29-4 tiếp quản đảo Trường Sa Lớn. Nhiệm vụ của đoàn khi tiếp quản các đảo là nắm bắt tình hình chung của đảo, xem xét địa hình, tổ chức lực lượng, tham gia ổn định cuộc sống cho những người lính ở lại giữ đảo. Với ý nghĩa đó, lên đảo nào, các thành viên trong đoàn cũng tranh thủ thời gian nắm bắt tình hình, địa thế của đảo, ghi chép chi tiết, tỉ mỉ biến động của thời tiết, con nước ở các đảo để làm cơ sở cho sự đầu tư phát triển sau này. Là một sĩ quan tham mưu chuyên theo dõi hàng hải, nhiệm vụ chính của Đại tá Nguyễn Văn Dân lúc bấy giờ là nắm bắt luồng lạch, thời tiết, khí tượng thủy văn, độ sâu mực nước để làm cơ sở cho việc bố trí tàu bè ra vào đảo... Đến năm 1978, ta bắt đầu làm sân bay ở Trường Sa, tiếp tục đóng giữ các đảo nổi An Bang, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh (Hòn Sập) và các đảo chìm. “Trong quá trình tiếp quản các đảo, hầu như chúng tôi không thấy tàu chiến nước ngoài, nhưng có một số tàu của Trung Quốc ở quanh các đảo. Khi thấy tàu ta đến, họ rút đi. Lúc đó, chúng tôi càng thấm thía hơn chủ trương của trên là phải kịp thời ra tiếp quản các đảo, kiên quyết không để lực lượng nào khác lợi dụng tình hình lúc đó chiếm đóng Trường Sa” - Đại tá Nguyễn Văn Dân chia sẻ.
Có thể nói, việc giải phóng quần đảo Trường Sa đã góp phần rất lớn vào việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Và những ngày tháng hào hùng
Đại tá Nguyễn Quang Lâm - nguyên Phó Chính ủy Trung đoàn 24, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3, hiện nay đang sống trong ngôi nhà nhỏ trên đường Nguyễn Biểu, TP. Nha Trang. Tuy đã bước sang tuổi 80 nhưng ông vẫn rất minh mẫn. Tham gia quân đội từ những ngày đầu kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trải qua hàng trăm trận đánh từ mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa cho đến chiến trường Tây Nguyên, rồi chiến dịch Hồ Chí Minh, ông đã dành trọn cả cuộc đời cho Đảng, cho cách mạng. Nhớ về những ngày tháng 4 lịch sử, nét mặt ông trở nên rạng rỡ: “38 năm trôi qua như một giấc mơ. Tôi vẫn còn nhớ như in sau khi vượt qua “lá chắn thép - đèo Phượng Hoàng”, đơn vị tôi (Sư đoàn 10) cùng với các lực lượng bộ đội địa phương nhanh chóng giải phóng Nha Trang. Sau 7 ngày (từ ngày 1 đến 7-4-1975) lưu lại làm nhiệm vụ quân quản, ổn định tình hình trật tự, ngày 8-4-1975, Sư đoàn 10 có lệnh gấp rút cơ động vào miền Đông Nam bộ tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Đại tá Nguyễn Văn Dân (đội mũ) trao quà khi thăm bộ đội đảo chìm Cô Lin năm 1991. (Ảnh do nhân vật cung cấp) |
Ngày 10-4, Sư đoàn được lệnh xuất phát, chia làm 2 hướng: Hướng thứ nhất xuất phát từ Ba Ngòi (Cam Ranh) theo đường 450 sang Gia Nghĩa; hướng thứ 2 ở phía Bắc Nha Trang quay lại đèo Phượng Hoàng, dọc theo Quốc lộ 26 lên Buôn Ma Thuột và hội quân ở Kiến Đức (Đắk Nông) phía Tây Bắc Sài Gòn. Trong quá trình hành quân, địch chốt chặn ở các tuyến đường chính và đặc biệt vẫn đang chiếm giữ Phan Rang (Ninh Thuận) - nơi có căn cứ không quân sân bay Thành Sơn. Máy bay địch ném bom, đánh phá trục đường hành quân rất dữ dội - đường 450 trở thành “tọa độ lửa”. Mặc dù vậy, với khí thế thừa thắng xông lên, đơn vị đã chiến đấu và vượt qua quãng đường đầy gian nan, ác liệt. Đến chiều 20-4, toàn Sư đoàn đã tập kết đúng địa điểm quy định. Sau khi tập hợp quân số, Sư đoàn tiếp tục hành quân, ngày 23-4 đến được vị trí tập kết cuối cùng là huyện Dầu Tiếng (tỉnh Thủ Dầu Một), cách Sài Gòn 70km về hướng Tây Bắc. “Trải qua quãng đường dài hành quân đầy nắng gió, nhiều đêm không ngủ, gương mặt ai nấy đều xạm đen, áo quần nhuộm màu đất đỏ” - Đại tá Lâm bộc bạch.
Ngày 25-4, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 10 triệu tập hội nghị quân chính, quán triệt và thống nhất phương án tác chiến, công việc được triển khai khẩn trương với nhiệm vụ được giao là hướng Tây Bắc Sài Gòn, dùng sức mạnh binh chủng hợp thành, thọc sâu đánh thẳng vào nội đô, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Mục tiêu trọng điểm là các cơ quan chỉ huy quân sự đầu não của ngụy quân Sài Gòn nằm tại sân bay. Lúc đó, sân bay Tân Sơn Nhất được bảo vệ 3 vòng (vòng ven - ngoài cùng, vòng giữa và lực lượng bên trong). Mỗi vòng địch đều bố trí các chốt chặn phòng thủ vững chắc, nhất là các điểm trọng yếu vòng ngoài, buộc quân ta phải đánh chiếm cầu Bông trên đường số 1, cầu Sáng trên trục đường 6, Hóc Môn, Củ Chi, Trại huấn luyện Quang Trung, ngã tư Bảy Hiền... để làm bàn đạp tiến công vào sân bay.
Trước tình hình diễn biến phức tạp, tại các chốt chặn, địch hiếu chiến, ngoan cố, chống trả quyết liệt nên Bộ Tư lệnh Sư đoàn đã giao nhiệm vụ cho từng đơn vị trực thuộc đánh liên tiếp, dồn dập và từng kíp tấn công. Nhiệm vụ đánh vòng ngoài do các trung đoàn Đặc công 198, Trung đoàn 64, 24, 28, 66 đảm nhiệm. Tại đầu cầu, địch đưa xe tăng bảo vệ, đồng thời cho pháo bắn từ lô cốt ra, khiến quân ta không thể tiến sâu vào vòng trong. Nhận thấy tình hình nguy cấp, một mặt, các đơn vị đưa xe tăng, pháo đối đầu trực diện với địch; mặt khác đưa lực lượng đặc công bí mật, luồn lách, áp sát tiêu diệt địch, chốt giữ cầu. Với cách đánh “vu hồi” (tấn công bên sườn) và bất ngờ, các mục tiêu lần lượt bị tiêu diệt.
Đại tá Nguyễn Văn Dân chuẩn bị tài liệu tuyên truyền về Trường Sa cho cán bộ và nhân dân phường Vĩnh Nguyên. |
“Nhưng tới ngã tư Bảy Hiền sát sân bay Tân Sơn Nhất, cuộc chiến giữa ta và địch thật sự căng thẳng, ở thế giằng co. Bởi đây chính là cửa ngõ vào sây bay, nơi án ngữ cổng số 5 - cổng chính sân bay. Đồng thời, đây là vị trí giao giữa đường 1 và đường vào trung tâm thành phố, khu dân cư đông đúc. Địch tăng cường hỏa lực mạnh tại địa điểm này, dựng nhiều lô cốt, đưa súng DKZ, B40, B41 lên các nhà cao tầng bắn xuống. Nếu không có phương án tối ưu sẽ bị thương vong rất nhiều, nhất là tính mạng và tài sản của người dân. Đứng trước bài toán khó, Ban Chỉ huy Sư đoàn quyết định chia đơn vị thành các tốp nhỏ, tương đương với cấp trung đội, đánh liên tiếp, hết tốp này đến tốp khác tiến lên; đồng thời tiêu diệt lực lượng tại chỗ của địch với mục đích vượt qua được chốt chặn ác liệt này. Sau hơn 2 giờ đồng hồ, toàn bộ đơn vị đã làm chủ tình hình, tiến vào sân bay” - Đại tá Nguyễn Quang Lâm nhớ lại.
5 giờ 30 phút sáng 30-4, Ban Chỉ huy Sư đoàn ra lệnh tiến công vào sân bay Tân Sơn Nhất. Giờ tận số của chế độ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn và tay sai đã đến, pháo binh của toàn đơn vị dồn dập bắn vào sân bay, khói mịt mù, địch náo động, hỗn loạn. Sau khi đánh chiếm ngã tư Bảy Hiền, đột phá vào cổng chính sân bay, Trung đoàn 24 áp sát tràn qua cổng số 5 đánh chiếm khu chỉ huy truyền tin, Bộ Tư lệnh Sư đoàn Dù số 5 của địch. Đồng thời, một đại đội của trung đoàn đã đột phá vào cổng số 4 chiếm giữ khu chỉ huy Bộ Tư lệnh Không quân. Các mũi thọc sâu, phát triển vào trung tâm sân bay, làm chủ các mục tiêu, bắt sống nhiều sĩ quan, binh lính ngụy ngay tại sở chỉ huy của địch. Hình ảnh con đại bàng bằng đồng ngạo nghễ dựng ngay trước sân Bộ Tư lệnh Không quân ngụy - biểu tượng của sức mạnh không lực Việt Nam cộng hòa đã bị trúng đạn pháo gãy cánh và gục đầu xuống, đây cũng là hình ảnh tiêu biểu nhất cho sự thảm bại của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn và tay sai bán nước.
Trong khi Trung đoàn 24 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất thì Trung đoàn 28 và xe tăng của Trung đoàn 273 đột phá dũng mãnh vào Bộ Tổng tham mưu ngụy. Tuy địch dùng hỏa lực mạnh bắn ra từ bên trong nhưng quân ta với sức mạnh không thể ngăn cản đã nhanh chóng phá vòng vây tiến thẳng vào khu Tổng hành dinh của ngụy quân Sài Gòn. Cùng lúc này, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 áp sát ngôi nhà tổng hành dinh và cho bộ đội từ Đại đội 10 nhanh chóng cắm cờ giải phóng lên nóc nhà Tổng hành dinh của ngụy quân Sài Gòn báo hiệu chiến thắng đã về ta. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1957, tất cả 5 cánh quân của ta đã tiến vào giải phóng hoàn toàn Sài Gòn. Quân đoàn 2 và Đoàn 232 nhanh chóng chiếm gọn Dinh Độc Lập, bắt sống Tổng thống Dương Văn Minh và toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Thành phố Sài Gòn - Gia Định được hoàn toàn giải phóng, miền Nam được thống nhất.
Chia tay chúng tôi, những người lính năm xưa gửi gắm: “Thế hệ các cháu phải biết trân trọng những giá trị của lịch sử, sự hy sinh xương máu của cha ông để góp sức mình xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc”.
KHÁNH HÀ - THÀNH NAM