10:03, 22/03/2022

Tản mạn: Một xứ sở cổ tích

"Tới đây đất nước lạ lùng/Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng run". Ngày còn bé, mỗi lần nghe bà ngoại cất giọng Huế ngân nga câu hát ru đó là trí tưởng tượng trong tôi lại được mở ra, nâng mình trôi về một xứ sở bí ẩn và thần kỳ. Đó là xứ sở mà ngoại tôi, từ năm 16 tuổi đã phải bỏ Huế quảy gánh theo chồng đi một hơi dặm dài hết miền Trung rồi tới đây lập nghiệp, sinh con đẻ cái.

“Tới đây đất nước lạ lùng/Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng run”. Ngày còn bé, mỗi lần nghe bà ngoại cất giọng Huế ngân nga câu hát ru đó là trí tưởng tượng trong tôi lại được mở ra, nâng mình trôi về một xứ sở bí ẩn và thần kỳ. Đó là xứ sở mà ngoại tôi, từ năm 16 tuổi đã phải bỏ Huế quảy gánh theo chồng đi một hơi dặm dài hết miền Trung rồi tới đây lập nghiệp, sinh con đẻ cái.

 


Hai vợ chồng mua rẻ một miếng đất rộng thênh thang vốn là bãi chăn dê của một người Chà Và dưới chân hòn núi Một, cất lên một túp nhà tranh chơ vơ. Đất mới người thưa, một bên là rừng mai cọp dữ, khỉ đàn; một bên là động cát bỏ hoang chạy dài tít tắp ra tới biển. Ai tới sau cũng túm tụm lại dựng nhà bên cạnh người tới trước. Lần hồi quây quần lại thành cái xóm nhỏ lưng dựa rừng mai. Nhà ngoại tôi tới trước nên ai tới sau tấp vô cũng được nhường bớt cho cái rẻo đất một bên, giếng đào cho dùng chung, còn lấy làm mừng vui vì có thêm bạn xóm giềng. Chả ai nghĩ tới làm hàng rào, trồng vài bụi cây xương rồng, keo hay thuốc dấu cho có lệ là xong. Nên cuối cùng đất nhà ngoại tôi không ra hình thù gì nữa, chỗ hẹp chỗ eo, chỗ nở, chỗ gấp khúc.


Nha Trang những năm ba mươi chỉ mới định hình vùng dân cư dọc theo sông Cái, từ Thành đổ xuống Cù Lao ra cửa biển. Dọc theo bãi biển hầu như chưa có dân ngụ cư, đường sá cũng không. Vùng đất dựa rừng mai nhìn ra biển dần hình thành cái xóm nhỏ toàn dân nghèo di dân tha phương nghiễm nhiên có tên Xóm Mới. Cha mẹ tôi sinh ra và lớn lên tại nơi này, cùng là những đứa trẻ Xóm Mới đầu tiên. Những đứa trẻ ấy nay đều đã ngoài tám mươi, chưa bao giờ thôi nhung nhớ về cái xóm nhỏ bên động cát trắng mênh mông trông ra biển lớn. Chúng cùng cảnh ngộ ăn đói mặc rách, đêm ngủ lạnh rút luôn mái tranh xuống quấn cho ấm, giành nhau cơm nguội với lũ khỉ ranh mãnh chực chờ sau nhà. Chúng từng cùng nhau chạy chân không trên cát bỏng, đạp lên xương rồng, bàn chải tuôn ào ra biển, rượt bắt dông nổi lửa nướng ăn. Chúng dẫn nhau trèo lên núi Một tới cái miếu hoang để rình xem có mãng xà vương như lời đồn đại hay chỉ toàn là khỉ...


Cái xứ sở “lạ lùng” của bà ngoại tôi cũng không thể nằm ngoài dòng chảy của thời cuộc, của chiến tranh. Cuộc di cư của đồng bào miền Bắc đã làm thay đổi hẳn bộ mặt đô thị, nhiều khu dân cư mới đồng loạt xuất hiện. Rừng rậm thành đất lành. Đường ở khu mới được mở ra tráng nhựa to rộng, còn đường trong khu Xóm Mới mãi lầm lỳ cát bụi, mùa mưa là ao to ao nhỏ. Không còn rừng mai, núi Một ở đầu xóm cũng chẳng còn nhìn thấy vì bị khai phá và che lấp, không còn cả không gian bao la nhìn ra biển, Xóm Mới ngày càng lạ lẫm và xa xôi rồi cũng có thể sẽ dần biến mất. Thêm vài cuộc bể dâu nữa, người người tứ tán, lớp thành thiên cổ, lớp đánh mất quá khứ lớp thiên di. Lúc đó, Xóm Mới ngày xưa ấy có lẽ thực sự trở thành xứ sở “lạ lùng” trong hình dung của những con người hiện tại đang sống trên chính nó...


Ông bà nội ngoại tôi đã thành người thiên cổ, con cháu nay đã nở ra tới thế hệ thứ năm ở tràn khắp chốn. Quê cũ của ông bà giờ chỉ còn man mác trong ký ức của lớp hậu sinh, còn cái “đất nước lạ lùng” trong câu hát cũ đã trở thành nguyên quán đầy tự hào từ lâu.


Mà sao mỗi lần nghe lại câu hát cũ tôi vẫn rưng rưng khi mường tượng ra tâm trạng của những người đi tha phương như ông bà mình, biết khổ biết khó mà vẫn bền chí vượt qua để có một ngày, cái “đất nước lạ lùng” ấy hóa thành miền cổ tích lung linh.


ÁI DUY