08:12, 29/12/2015

Thêm cơ hội sống cho bệnh nhân bị xuất huyết não

Việc áp dụng thành công phương pháp bít túi phình động mạch não bằng dụng cụ coil ở Bệnh viện Đa khoa  tỉnh đã mở thêm nhiều cơ hội sống cho bệnh nhân mắc bệnh lý xuất huyết não do vỡ túi phình động mạch não.

Việc áp dụng thành công phương pháp bít túi phình động mạch não bằng dụng cụ coil ở Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) tỉnh Khánh Hòa đã mở thêm nhiều cơ hội sống cho bệnh nhân (BN) mắc bệnh lý xuất huyết não do vỡ túi phình động mạch não.


Đầu tháng 4-2015, BVĐK tỉnh tiếp nhận BN B.H.T (54 tuổi, TP. Nha Trang) với triệu chứng yếu nửa người bên trái, huyết áp tăng cao kèm theo những cơn co giật, kích thích. Qua thăm khám và kết quả chụp MSCT sọ não cho thấy, BN bị xuất huyết hai bán cầu não do vỡ túi phình động mạch não. Qua 4 ngày điều trị tích cực tại Khoa Hồi sức tích cực chống độc, tình trạng bệnh của BN vẫn diễn biến xấu. Trước tình hình trên, BVĐK tỉnh phối hợp với BV Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh tiến hành hội chẩn và điều trị cho BN bằng phương pháp bít túi phình động mạch não bằng dụng cụ coil. Sau khi được can thiệp bằng phương pháp trên, sức khỏe của BN dần cải thiện, hết đau đầu, hết yếu liệt nửa người và xuất viện sau 12 ngày điều trị.

 

Các bác sĩ thực hiện phương pháp bít túi phình động mạch não bằng dụng cụ coil
Các bác sĩ thực hiện phương pháp bít túi phình động mạch não bằng dụng cụ coil


Sau đó 1 tháng, BVĐK tỉnh tiếp nhận BN L.L.H (48 tuổi, TP. Nha Trang) bị xuất huyết não do vỡ túi phình động mạch não với những biến chứng nặng hơn. Sau hội chẩn, BVĐK tỉnh đã mời chuyên gia của BV Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh phối hợp với bác sĩ (BS) Khoa Tim mạch can thiệp của BV thực hiện can thiệp bít túi phình động mạch não bằng dụng cụ coil cho BN. Sau đó, các triệu chứng đau đầu và yếu liệt của BN được cải thiện rõ. BN xuất viện sau 20 ngày điều trị.


Tiến sĩ, BS Huỳnh Văn Thưởng - Phó Giám đốc BVĐK tỉnh, Trưởng khoa Tim mạch can thiệp cho biết, phương pháp bít túi phình động mạch não bằng dụng cụ coil là kỹ thuật tiên tiến đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng trong điều trị bệnh lý xuất huyết não do vỡ, phình, dị dạng mạch máu não. Phương pháp này được thực hiện bằng cách, qua ống thông được đặt ở bẹn của BN, BS sẽ đưa dụng cụ coil đến mạch máu não để bít chỗ phình đã bị vỡ. So với phương pháp mổ hở, can thiệp bít túi phình mạch máu não bằng dụng cụ coil có nhiều ưu thế là giảm tỷ lệ chảy máu tái phát, ít xâm nhập các khu vực lân cận của não trong quá trình can thiệp, giảm nguy cơ tàn tật cho BN, vết mổ nhỏ.


Thực hiện Đề án 1816, đầu tháng 4-2015, BV Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh đã chuyển giao kỹ thuật này cho Khoa Tim mạch can thiệp của BVĐK tỉnh. “Đây là một kỹ thuật khó, đòi hỏi tay nghề cao nên hiện nay các chuyên gia của BV Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh thực hiện chính, các BS của BV chủ yếu học tập và tiếp nhận dần. Chúng tôi đang hy vọng với việc đưa BS vào TP. Hồ Chí Minh học tập, kết hợp với việc tiếp nhận kỹ thuật ngay tại BVĐK tỉnh, trong 2 năm tới, các BS của BV sẽ làm chủ hoàn toàn kỹ thuật này” - BS Thưởng chia sẻ.


Được biết, tại Khánh Hòa, bệnh lý này tương đối nhiều, mỗi năm ghi nhận khoảng 20 - 30 ca. Khoa Tim mạch can thiệp của BVĐK tỉnh dự định vào năm 2016 sẽ tiến hành các đợt khám sàng lọc bệnh lý trên để tầm soát, qua đó cảnh báo và có hướng điều trị sớm nhằm tránh những biến chứng nguy hiểm đến tính mạng cho người bệnh.


T.L

 


 

Theo BS Thưởng, nguyên nhân gây nên xuất huyết não là do chấn thương hoặc tự phát. Trong nguyên nhân tự phát, 80% là do vỡ túi phình mạch não gây nên. Những người thường xuyên hút thuốc lá, dùng viên thuốc tránh thai, uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích đều có yếu tố nguy cơ cao. Triệu chứng của bệnh là đau đầu dữ dội. Bệnh này được điều trị càng sớm càng tốt vì nó giúp ngăn ngừa những triệu chứng gây liệt cơ thể hoặc tử vong cho BN như: tràn máu não tủy, co giật, thiếu máu cục bộ cơ tim hoặc rối loạn nhịp tim, co thắt mạch máu, hạ Natri máu, nhiễm trùng... Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp bị xuất huyết não do vỡ phình động mạch não đều được điều trị bằng phương pháp này mà tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể như: tiền sử chảy máu, vị trí túi phình, kích thước túi phình, tuổi BN.