Chồng tôi giả chữ ký của tôi để chuyển nhượng một lô đất cho em trai còn trên thực tế thì vợ chồng tôi vẫn sử dụng lô đất này. Người này đã dùng giấy tờ nhà đó để vay ngân hàng. Mới đây, em chồng tôi không trả được nợ và Ngân hàng chuẩn bị xử lý lô đất để thu hồi nợ thì sự việc mới vỡ lở. Vậy xin hỏi giao dịch thế chấp của em chồng tôi tại ngân hàng có bị vô hiệu không?
Hỏi: Chồng tôi giả chữ ký của tôi để chuyển nhượng một lô đất cho em trai còn trên thực tế thì vợ chồng tôi vẫn sử dụng lô đất này. Người này đã dùng giấy tờ nhà đó để vay ngân hàng. Mới đây, em chồng tôi không trả được nợ và Ngân hàng chuẩn bị xử lý lô đất để thu hồi nợ thì sự việc mới vỡ lở. Vậy xin hỏi giao dịch thế chấp của em chồng tôi tại ngân hàng có bị vô hiệu không?
(Nguyễn Thị Tuyết, Nha Trang)
Trả lời: Theo Công văn 02/TANDTC-PC ngày 2-8-2021 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vướng mắc trong xét xử, vấn đề bà hỏi được quy định như sau: Theo Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Trường hợp giao dịch vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp này, việc chồng bà giả chữ ký của bà để chuyển nhượng lô đất cho em trai mà không được bà đồng ý, nên căn cứ Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch chuyển nhượng nhà đất trên là vô hiệu.
Sau khi nhận chuyển nhượng, em chồng bà dùng lô đất này thế chấp khoản vay tại Ngân hàng nhưng khi ký hợp đồng thế chấp tài sản, ngân hàng không thẩm định, xác minh nên không biết vợ chồng bà vẫn quản lý, sử dụng đất hoặc đã thẩm định nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh vợ chồng bà biết việc thế chấp tài sản này. Trong trường hợp này, bên nhận thế chấp tài sản (ngân hàng) không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do vậy, hợp đồng thế chấp tài sản cũng vô hiệu.
Luật gia Minh Hương