Sa sút trí tuệ được đặc trưng bởi sự suy giảm nhiều chức năng cao cấp của vỏ não mà không rối loạn ý thức. Sa sút trí tuệ có thể khởi phát ở tuổi trẻ, song chủ yếu là lứa tuổi già. Một số nghiên cứu cho thấy ở lứa tuổi 65, tỷ lệ sa sút trí tuệ là 5%, cứ tăng thêm 5 tuổi thì số lượng người sa sút trí tuệ tăng lên 2 lần, đến 80 tuổi thì 1/3 số người già mắc hội chứng này.
Sa sút trí tuệ được đặc trưng bởi sự suy giảm nhiều chức năng cao cấp của vỏ não mà không rối loạn ý thức. Sa sút trí tuệ có thể khởi phát ở tuổi trẻ, song chủ yếu là lứa tuổi già. Một số nghiên cứu cho thấy ở lứa tuổi 65, tỷ lệ sa sút trí tuệ là 5%, cứ tăng thêm 5 tuổi thì số lượng người sa sút trí tuệ tăng lên 2 lần, đến 80 tuổi thì 1/3 số người già mắc hội chứng này.
Theo bác sĩ Nguyễn Minh Hiếu - Giám đốc Bệnh viện Y học Cổ truyền và Phục hồi Chức năng tỉnh, sa sút trí tuệ mức độ nhẹ triệu chứng nổi bật nhất là giảm trí nhớ gần, còn gọi trí nhớ ngắn hạn. Bệnh nhân (BN) thường biểu hiện dưới hình thức nhắc lại 1 câu hỏi đã hỏi nhiều lần, thậm chí 2 câu hỏi cùng một nội dung được nhắc lại cách nhau vài phút, hoặc hay đi tìm đồ dùng cá nhân vì quên mất không nhớ chúng được để ở đâu. BN không nhớ những từ ngữ hàng ngày nên thường diễn đạt vòng vo. Công việc thường ngày như: lái xe, nội trợ, quản lý tiền bạc ngày càng trở nên khó khăn. Các rối loạn cảm xúc và sự suy giảm khả năng học các kiến thức, kỹ thuật mới xuất hiện từ trong giai đoạn sớm của sa sút trí tuệ. Cảm xúc dao động giữa hai cực trầm cảm và hưng cảm. BN thay đổi tính tình như: trở nên khó tính hơn, dễ nóng giận và xúc động.
Ở giai đoạn sa sút trí tuệ mức độ trung bình, BN rối loạn trí nhớ nặng hơn, ngôn ngữ thiếu lưu loát. BN vụng về trong sinh hoạt hàng ngày như: sử dụng các trang thiết bị trong gia đình, khó khăn trong mua sắm tính toán. BN thực hiện khó khăn hay không thực hiện được các hoạt động thường ngày: nấu cơm, pha trà, lựa chọn quần áo phù hợp. Người bệnh mất dần khả năng thu nhận những thông tin mới. Rối loạn định hướng về không gian và địa lý. BN có thể lạc khi ra khỏi nhà và một số khác lạc ngay trong nhà mình. BN dễ gặp các tai nạn nhất là té ngã. BN có hoang tưởng nhiều hơn, nghi ngờ những người xung quanh.
Sa sút trí tuệ mức độ nặng là giai đoạn cuối của bệnh. BN mất toàn bộ khả năng tự phục vụ và chăm sóc bản thân trong sinh hoạt hàng ngày. Người bệnh hoàn toàn lệ thuộc vào người khác vì không thể tự ăn uống, tiểu tiện, tắm rửa, di chuyển. Người bệnh mất cả trí nhớ gần và trí nhớ xa, không còn nhận biết người thân trong gia đình. Người bệnh thường nằm liệt giường, có nguy cơ thiếu dinh dưỡng, viêm phổi, loét do tì đè.
Bác sĩ Hiếu lưu ý, rối loạn cảm xúc, trầm cảm thường xảy ra ở BN sa sút trí tuệ. Triệu chứng trầm cảm không điển hình, với các triệu chứng như: bàng quan, lo âu. Đối với các rối loạn hành vi, kích động có thể gặp ở 30% BN sa sút trí tuệ. Hành vi thường gặp có tính chất phá hoại hay hành vi bạo lực. Kích động biểu hiện bằng hành vi tấn công hay đe dọa (kích động thể lực), biểu hiện bằng ngôn ngữ (kích động ngôn ngữ), biểu hiện bằng cơn kêu khóc hay giận dữ (kích động cảm xúc). Kích động ở BN sa sút trí tuệ có tính chất đột ngột, mất định hướng. Về các biến đổi nhân cách, BN sa sút trí tuệ trở nên hướng nội, ít quan tâm hơn trước kia về những hậu quả hành vi của mình đối với những người xung quanh. BN sa sút trí tuệ có hội chứng paranoid thường thù ghét các thành viên trong gia đình hoặc người chăm sóc mình. BN mất dần các ham muốn, trở nên cáu kỉnh, độc đoán. BN trở nên hoài nghi, ghen tuông vô lý, trẻ con hóa, ăn mặc cẩu thả.
Ở giai đoạn sa sút trí tuệ sớm, tổ chức não bị các rối loạn chức năng có khả năng hồi phục nếu được điều trị kịp thời. Do vậy, việc khám toàn diện cả lâm sàng và cận lâm sàng xác định tìm các nguyên nhân gây ra sa sút trí tuệ, từ đó có được một trị liệu đặc hiệu phù hợp đối với mỗi người bệnh có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Bác sĩ Tôn Thất Toàn
(Trung tâm Truyền thông GDSK Khánh Hòa)