Trò chuyện với ông Trần Ngọc Tuấn – nguyên Chính trị viên, Bí thư chi bộ trên Đoàn tàu không số oanh liệt những ngày chống Mỹ cứu nước, chúng tôi như được sống lại cùng ông những giây phút ác liệt mà hào hùng của những năm tháng chiến tranh gian khổ, trường kỳ…
Trò chuyện với ông Trần Ngọc Tuấn – nguyên Chính trị viên, Bí thư chi bộ trên Đoàn tàu không số oanh liệt những ngày chống Mỹ cứu nước, chúng tôi như được sống lại cùng ông những giây phút ác liệt mà hào hùng của những năm tháng chiến tranh gian khổ, trường kỳ…
Ký ức không quên
Chiến sĩ Trần Ngọc Tuấn sinh năm 1933, tại huyện Hiệp Đức, Quảng Nam trong một gia đình có 8 người con. Tròn 20 tuổi, khi ấy ông viết đơn tình nguyện nhập ngũ và được phân công về đơn vị “tình nguyện quân” Hạ Lào vào tháng 5-1953, liên tục tham gia chiến đấu trên các mặt trận. Cuối năm 1963, ông được cấp trên điều về Đoàn 759 làm Chính trị viên - Bí thư chi bộ các tàu 56, 55 và 43. Đó cũng là thời điểm bắt đầu cho chuỗi ngày lênh đênh trên biển, người chiến sĩ trẻ cùng đồng đội mang trong mình trọng trách cao cả, nối đôi miền hậu phương - tiền tuyến bằng những chuyến hàng, phục vụ cho chiến trường miền Nam khốc liệt những ngày đánh Mỹ.
Những chiến sĩ của tàu 56. |
“Với cương vị và nhiệm vụ được giao, tôi cùng đồng đội đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ trọng yếu. Có thể kể đến những chiến công tiêu biểu như: chuyến vận chuyển vũ khí từ miền Bắc vượt biển Đông vào các chiến trường Quảng Ngãi, Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh, Cà Mau, đặc biệt là 10 chuyến hàng vào chiến trường Khu V. Mỗi chuyến đi như thế, nếu gặp máy bay hay tàu chiến Mỹ truy kích, có khi phải mất đến 2 - 3 tháng ròng trong sự mong ngóng từng ngày của tiền tuyến...”, ông chầm chậm ôn lại.
Ông tiếp tục mạch ký ức của mình bằng những chiến tích: “Một trong những sự kiện đáng nhớ nhất trong cuộc đời làm cách mạng của tôi là lần được cấp trên giao 3 chuyến đi phục vụ chiến dịch vô cùng ác liệt. Đó là chuyến đột phá bằng tàu sắt vào bến Lộc An, sông Ray, Bà Rịa cuối tháng 12-1964, trực tiếp trang bị cho một trung đoàn chủ lực để đánh trận Bình Giã, giành thắng lợi vang dội. Tiếp đó là chuyến đột phá vào bến Sa Kỳ, Quảng Ngãi phục vụ cho chiến dịch đánh lớn ở chiến trường Khu V vào tháng 3-1967. Cuối cùng là chuyến phục vụ chiến dịch Mậu Thân năm 1968 ở chiến trường Đức Phổ, Quảng Ngãi”.
Ông Trần Ngọc Tuấn tại nhà riêng. |
Người lính năm xưa không giấu được niềm tự hào về những thành tích mà ông và đồng đội đã lập nên trong những ngày tháng gian khổ nhất, đóng góp lớn vào quá trình chiến đấu và chiến thắng của tiền tuyến. Câu chuyện quá khứ cứ thế lần lượt tái hiện như những thước phim tài liệu sống động, giàu cảm xúc: “Trong những chuyến đi của mình, tôi không thể quên được việc 2 lần bị quân địch phát hiện, dùng tàu khu trục, tàu chiến đấu cao tốc, máy bay vây đánh nhằm bắt sống tàu ta trên biển”. Theo lời kể của ông, vào tháng 3-1967, trận chiến đấu với 3 tàu chiến Mỹ có cả máy bay yểm trợ kéo dài suốt hơn 3 giờ trên vùng biển Bình Sơn, Quảng Ngãi, tàu của ông đã bắn bị thương 1 tàu chiến Mỹ và diệt gọn 3 hải thuyền của chúng. Khốc liệt và hiểm nguy hơn là lần đối đầu với 4 tàu khu trục, 10 tàu cao tốc, 3 máy bay trực thăng Mỹ trong hơn 3 giờ đồng hồ trên vùng biển hoàn toàn do địch kiểm soát. Tại trận này, ông và đồng đội đã tiêu diệt được 1 tàu cao tốc, bắn bị thương 2 chiếc khác, đồng thời bắn rơi 3 chiếc trực thăng trên vùng biển thôn Quy Thiện, Phổ Hiệp, Quảng Ngãi (tháng 3-1968). Giọng kể của ông nhiều lần chùng xuống khi gợi nhắc về những người đồng đội sát cánh một thời, giờ người mất người còn, có người vĩnh viễn nằm lại ngoài biển Đông.
Điều làm ông day dứt nhất đó là chuyến đi vào tháng 3-1967, khi tàu ông bị địch bao vây ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi. Trước tình thế bức bách ấy, buộc ông phải chính tay đặt kíp nổ thực hiện công việc phá hủy con tàu, các chiến sĩ tàu không số sau đó được Tỉnh đội Quảng Ngãi ứng cứu. “Trong chuyến trở về, những đồng đội của tôi không đủ sức gắng gượng vì đói rét, bệnh tật nên đã hy sinh dọc đường, nhiều người còn rất trẻ, có anh mới cưới vợ được vài tháng... Còn những người may mắn hơn, phải mất khoảng 7 tháng sau mới về được đơn vị ở Thủy Nguyên, Hải Phòng trong tình trạng sức lực suy kiệt, bệnh tật bủa vây”, ông rớm nước mắt chia sẻ. Dẫu vậy, ông cho biết, tinh thần vượt biển lại được nhen lên rất nhanh sau những trận chiến ác liệt ấy, ông và đồng đội lại gấp rút chuẩn bị cho một chuyến đi mới.
Chiến tích của người chính trị viên dũng cảm
“Hầu như chuyến đi nào, chúng tôi cũng bị tàu Mỹ truy kích nhằm tiêu diệt và cướp vũ khí, đạn dược. Và tôi là người 2 lần trực tiếp chỉ huy tổ cảm tử cài kíp nổ vào bộc phá dưới làn bom đạn dày đặc của địch, phá hủy toàn bộ con tàu, không để lọt vào tay giặc” - ông Tuấn bồi hồi nhớ lại.
Ảnh tư liệu về “Tàu không số” mang hiệu 56 |
Lần thứ nhất, khoảng 5 giờ 30 phút ngày 14-3-1967 tại Sa Kỳ, Quảng Ngãi, ông đã dũng cảm trực tiếp điểm hỏa chính xác 3 loại kíp nổ vào 5 vị trí bộc phá đã đặt sẵn trên tàu. Chỉ cần một sơ suất nhỏ, ông và đồng đội sẽ không giữ được mạng sống. Lần thứ hai, trong sự kiện diễn ra vào lúc 4 giờ ngày 1-3-1968 tại thôn Quy Thiện, Phổ Hiệp, Đức Phổ, Quảng Ngãi, ông cũng trực tiếp chỉ huy tổ cảm tử lắp kíp điểm hỏa giữa chảo lửa dày đặc đạn pháo trên đất liền, trên hạm đội 7, trên máy bay... dồn dập nã đạn hòng hủy diệt quân ta để cướp tàu. Đồng thời, ông đã một mình dũng cảm xông lên 2 hầm hàng lắp kíp điểm hỏa một cách nhanh chóng. Sau đó, ông ra lệnh cho đồng đội rời tàu bơi vào bờ. Một lần nữa, con tàu được phá hủy hoàn toàn, không để lọt vào tay giặc. Lần này, ông bị thương và được du kích địa phương nhanh chóng đưa xuống hầm bí mật để tránh một trận càn của lính thủy đánh bộ Mỹ suốt 5 ngày, sau đó mới tìm đường lên bệnh xá của bác sĩ Đặng Thùy Trâm điều trị vết thương. Trong cuốn nhật ký của nữ bác sĩ anh hùng sau này cũng đã nhiều lần nhắc đến tên ông về những ngày điều trị tại bệnh xá.
Ông cũng cho biết, trước những chuyến xuất phát từ hải cảng, ông và các đồng đội tàu không số đều được những vị lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, quân đội như :Tổng Bí thư Lê Duẩn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm, động viên. Những sự quan tâm, tình cảm ấy là động lực giúp ông và các đồng đội luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, hoàn thánh tốt nhiệm vụ.
Trải qua nhiều năm lênh đênh chinh chiến trên biển, đối diện với nhiều hiểm nguy thường trực trước họng súng của quân thù, năm 1968, trong một cuộc vượt biển để chi viện cho trận đánh Mậu Thân, ông bị thương nặng. Đó cũng là thời điểm ông nghẹn ngào chia tay các đồng đội, chấm dứt cuộc chiến đấu sôi sục và đầy nhiệt huyết…
Hòa bình lập lại, người lính năm xưa vào định cư ở thành phố biển Nha Trang, tiếp tục trải qua nhiều năm công tác ở nhiều chức vụ khác nhau. Với những cống hiến không mệt mỏi trên con tàu huyền thoại một thời, ông đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, huy hiệu 55 năm tuổi Đảng, Tàu 56 được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Kiên trung trong đấu tranh, trở về với cuộc sống đời thường hôm nay, người chiến sĩ tàu không số năm xưa vẫn luôn giữ vững cốt cách, tinh thần của một người lính. Ở khu phố, ông luôn tiên phong trong công tác vận động thanh niên lên đường nhập ngũ; giáo dục, cảm hóa thanh niên hư hỏng tiến bộ. Niềm vui mỗi ngày của vợ chồng người lính già giờ đây là cuộc sống bình dị vui vầy bên con cháu, gặp gỡ những đồng đội cũ, ôn lại những ký ức đẹp của những năm tháng lênh đênh trên biển.
NGÔ THẾ LÂM