03:03, 22/03/2013

Đến năm 2020: Dự báo tổng lượng nước thiếu hụt toàn tỉnh hơn 26 triệu m3

Nhân ngày Nước thế giới (22-3), phóng viên Báo Khánh Hòa đã phỏng vấn Thạc sĩ Bùi Minh Sơn - Trưởng phòng Tài nguyên nước và Khí tượng thủy văn (Sở Tài nguyên và Môi trường).

Nhân ngày Nước thế giới (22-3), phóng viên Báo Khánh Hòa đã phỏng vấn Thạc sĩ Bùi Minh Sơn - Trưởng phòng Tài nguyên nước (TNN) và Khí tượng thủy văn (Sở Tài nguyên và Môi trường).

- Thưa ông, tại sao ngày Nước thế giới năm nay lại có chủ đề “Năm quốc tế hợp tác vì nước”?

- Tại nhiều quốc gia trên thế giới, nước sạch đang ngày càng trở nên khan hiếm. Áp lực này tạo nên sự cạnh tranh giữa các đối tượng sử dụng nước tại những lưu vực sông, vùng lãnh thổ khác nhau trên thế giới và ngay trong mỗi quốc gia, dân tộc. Chính vì lý do đó, Liên hợp quốc đã chọn chủ đề cho ngày Nước thế giới năm 2013 là “Năm quốc tế hợp tác vì nước” với thông điệp: “Nếu tất cả chúng ta cùng nhau chia sẻ, ai cũng có cơ hội sử dụng nước”.

Thông qua chủ đề này, Liên hợp quốc muốn nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò của việc hợp tác trong lĩnh vực TNN. Đó là: hợp tác vì nước là một trong những phương thức để xây dựng hòa bình. Việc hợp tác trong một vấn đề thực tiễn mang tính sống còn như TNN sẽ giúp các cộng đồng đến gần nhau hơn, vượt qua rào cản về văn hóa, chính trị, xã hội. Đồng thời, đó cũng là cơ hội để tạo dựng lòng tin và hòa bình xã hội giữa các nhóm, giới tính, cộng đồng, khu vực và quốc gia khác nhau. Hợp tác vì nước là chìa khóa cho sự phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, bình đẳng giới và môi trường bền vững. Hợp tác vì nước còn tạo ra lợi ích kinh tế hiện hữu cho các bên tham gia; có thể đưa đến khả năng sử dụng nước hiệu quả và bền vững hơn, tạo ra lợi ích song phương và điều kiện sống tốt hơn. Hợp tác vì nước là tối cần thiết để bảo tồn nguồn nước, đảm bảo cho sự bền vững của các nguồn nước và bảo vệ môi trường sống. Do tính chất của nguồn nước không phân ranh giới quốc gia, khu vực nên cần có hợp tác vì nước để tạo cơ hội trao đổi kiến thức, kinh nghiệm, chiến lược, thông tin, giúp các đối tượng sử dụng nước hiệu quả và công bằng nhất.

- Hiện nay, TNN trên địa bàn tỉnh có đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt và sản xuất? Dự báo tình hình cấp nước dài hạn trong những năm tới như thế nào? Các cấp, ngành đã đề ra giải pháp gì để quản lý và bảo vệ nguồn nước?

- Theo điều tra, đánh giá mới nhất, tổng lượng dòng chảy tỉnh Khánh Hòa khoảng 5 tỷ m3 nước mặt, trong đó lượng nước do mưa sinh ra chiếm 91,4% (4,6 tỷ m3) và dòng chảy từ bên ngoài vào chiếm 8,6% (0,4 tỷ m3). Tổng trữ lượng tiềm năng khai thác nước dưới đất chưa kể phần hải đảo ước tính khoảng 0,6 tỷ m3/năm. Như vậy, nếu được đầu tư và xây dựng các công trình khai thác, sử dụng nước theo quy hoạch (thủy lợi, cấp nước sinh hoạt, hồ chứa thủy điện...) với cả 2 nguồn nước mặt và nước dưới đất trên phạm vi toàn tỉnh thì đảm bảo cung cấp cho nhu cầu sử dụng hiện tại (khoảng 800 triệu m3/năm). Nếu tính toán nhu cầu sử dụng nước theo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và có xét đến tác động của biến đổi khí hậu thì dự báo đến năm 2020, tổng lượng nước thiếu hụt toàn tỉnh hơn 26 triệu m3; giai đoạn 2050 - 2100, mức thiếu hụt khoảng 70 - 100 triệu m3/năm.

Hơn 10 năm qua, từ khi Luật TNN có hiệu lực thi hành (ngày 1-1-1999), UBND tỉnh luôn quan tâm đến công tác bảo vệ nguồn TNN và đề ra nhiều giải pháp để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên này. Đến nay, UBND tỉnh đã ban hành các quy định về cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng TNN và xả nước thải vào nguồn nước nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường; quy định về quản lý TNN trên địa bàn tỉnh; đồng thời chỉ đạo các sở, ngành lập quy hoạch khai thác sử dụng TNN, phòng, chống tác hại do nước gây ra bằng các biện pháp công trình và phi công trình. Đến nay, đã có nhiều công trình được thực hiện, cụ thể như: lập quy hoạch thủy lợi giai đoạn 2005 - 2010, rà soát, chỉnh sửa bổ sung giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn 2020; quy hoạch, phân vùng khai thác sử dụng TNN dưới đất trên địa bàn TP. Nha Trang; điều tra đánh giá sơ bộ TNN dưới đất toàn bộ vùng ven biển Khánh Hòa; điều tra, lập danh mục những nguồn nước có nguy cơ ô nhiễm, cạn kiệt và suy thoái trên toàn tỉnh để tìm biện pháp xử lý, khôi phục; lập nhiệm vụ quy hoạch lưu vực sông; đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với TNN; đầu tư xây dựng các công trình hồ chứa thủy lợi, nhiều công trình cấp nước sinh hoạt; rà soát đề nghị Thủ tướng Chính phủ đưa ra ngoài quy hoạch một số dự án thủy điện có công suất nhỏ nhưng chiếm nhiều diện tích rừng... Có thể nói, những năm qua, Khánh Hòa đã có nhiều giải pháp tổng thể để góp phần bảo vệ bền vững nguồn TNN.

Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan tham mưu cho UBND tỉnh trong công tác quản lý nhà nước về TNN trên địa bàn tỉnh. Thời gian tới, chúng tôi sẽ tập trung rà soát, xây dựng, tham mưu UBND tỉnh, HĐND tỉnh ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền quy định cụ thể đối với việc quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng bền vững TNN trên địa bàn tỉnh. Phấn đấu hoàn thành công tác điều tra, đánh giá, tiến tới lập các quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN (nước mặt và dưới đất), xả nước thải vào nguồn nước đến năm 2020, tầm nhìn 2030 để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng. Bên cạnh đó, tăng cường công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra hoạt động TNN...

- Nguồn nước ở một số nơi trong tỉnh đang bị ô nhiễm, cạn kiệt hoặc có nguy cơ bị ô nhiễm, cạn kiệt. Ngành Tài nguyên và Môi trường đã đề xuất với tỉnh những giải pháp gì để cải thiện? Ông có lời khuyên nào đối với các tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn nước?

- Hiện nay, danh mục các nguồn nước có nguy cơ bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt trên địa bàn tỉnh đã được điều tra, đánh giá và liệt kê. Để phục hồi và bảo vệ các nguồn nước này, theo tôi cần ưu tiên thực hiện một số giải pháp sau: Hoàn thiện thể chế và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các công tác quản lý về TNN bao gồm việc thực hiện Luật TNN; xây dựng chiến lược và quy hoạch sử dụng nước dài hạn, các kế hoạch cụ thể trong việc thực hiện các chiến lược và quy hoạch hướng đến bảo vệ và phát triển bền vững TNN, trong đó chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp giữa các lĩnh vực, các ngành khác nhau (Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Công Thương...) trong công tác quản lý tổng hợp TNN. Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, xử lý đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có hành vi vi phạm trong hoạt động xả nước thải vào nguồn nước; tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về TNN; trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng ngập mặn để bảo vệ nguồn nước mặt và nước dưới đất; tăng cường, khuyến khích nghiên cứu và chuyển giao công nghệ theo hướng tái sử dụng nước, phục hồi các nguồn nước có nguy cơ ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt; tăng cường phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác quản lý nhà nước về TNN, đặc biệt là cán bộ chuyên môn cấp huyện, xã.

Về phía các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước, trước hết, cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ TNN đối với sự sống và phát triển của xã hội; chấp hành pháp luật TNN, không khai thác, xả nước thải trái phép vào nguồn nước; bảo vệ môi trường, không xả rác thải, chất thải vào nguồn nước; thực hiện các biện pháp sử dụng nước sạch một cách tiết kiệm, hiệu quả nhất.

- Xin cảm ơn ông!

QUANG VIÊN (Thực hiện)