09:11, 02/11/2021

Rặng trà xanh vườn xưa

Tôi xa quê đã lâu, mỗi lần về lại thấy phong cảnh thay đổi. Nhà cửa, đường sá... khiến bước chân đôi lúc ngập ngừng bởi nỗi lạ lạ, quen quen.
 

Tôi xa quê đã lâu, mỗi lần về lại thấy phong cảnh thay đổi. Nhà cửa, đường sá... khiến bước chân đôi lúc ngập ngừng bởi nỗi lạ lạ, quen quen.

 

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.
 
Nhà tôi nằm trên quả đồi nhỏ, xung quanh là vài chục nhà quây quần bên nhau. Nhà nào cũng có khoảng vườn có các loại cây ăn trái và đặc biệt hơn đó là vài hàng cây trà mà quê tôi vẫn gọi là cây chè.
 
Hàng chè nhà tôi trồng từ khi nào không biết, chỉ nhớ khi tôi bắt đầu biết ghi nhớ mọi sự việc thì đã có nó... Quê tôi thường mỗi nhà trồng vài hàng chè như kiểu bờ rào ngoài cổng hay bao quanh vườn. Những chỗ nhiều ánh nắng, bà nội tôi gọi là “dại nắng”, lá chè thường nhỏ và có màu sậm hay vàng hơn những chỗ rợp. Nhưng chính những lá chè chỗ đó khi nấu nước chè xanh mới thơm ngon hơn những cây chè trong bóng rợp.
 
Để hãm chè xanh, bà nội tôi vẫn hàng ngày ra hái ngoài cây, tôi cũng lũn cũn đi theo bà. Khi bà bứt những lá chè nhỏ, giòn thì tôi mê mải hái những bông hoa chè có 6 cánh màu kem lấm tấm nhụy vàng ở giữa. Bà hái một chét tay đầy rồi vào rửa sạch. Nước giếng quê tôi là giếng đá ong, bà múc lên đổ vào đun trên bếp củi. Nước sôi, bà vò những lá chè đã rửa sạch kia rồi bỏ vào cái ấm (quê tôi gọi ấm tích) rồi đổ một ít nước sôi vào rồi lại đổ đi. Bà gọi đó là “làm lông chè”. Sau đó mới đổ nước sôi vào rồi bỏ ấm tích vào trong giỏ đan mây để ủ. Chén chè xanh vàng như màu hổ phách và làn hương mùi chè, mùi nắng tỏa khắp ba gian nhà lá đơn sơ.
 
Mỗi năm vào khoảng mùa thu, ông tôi lại đốn tỉa một lần cho cây chè nảy nhiều búp non. Đến đầu mùa xuân, khi những làn mưa phùn bay bay khắp đất trời thì những búp chè mơn mởn đua nhau bật lên. Khi đó ông bà lại hái về để sao thành chè khô. Bà dạy tôi hái chè là 1 tôm 2 lá. Nghĩa là phần đầu búp có 2 lá và 1 búp nảy lên như đầu con tôm. Búp chè hái về rồi được sao bằng chảo gang. Lúc sao chè củi đun nhỏ và khi những búp chè non bắt đầu héo và mềm xèo thì ông đổ ra cái nia rồi lấy tay vừa vò vừa ấn miết mớ chè đó xuống nia. Cứ làm thật nhiều lần cho đến khi chè thành cục quyện vào nhau và các lá chè đã cuộn bớt lại - bàn tay vò chè thường bị đen do lớp nhựa chè tiết ra - thì cho lên chảo đảo tiếp. Đến lúc này ông tôi không dùng đũa lớn nữa mà dùng bàn tay vừa đảo vừa xoay miết chè xuống lòng chảo. Đến khi nào chè sắp khô thì tắt củi nhưng vẫn đảo tiếp chừng 10 - 15 phút nữa. Những búp chè non giờ đã co lại như cái móc câu nhỏ. Màu đen xám pha ánh xanh và phủ lớp phấn trắng bên ngoài. Sau khi sao xong ông tôi thường để cho chè đó nguội rồi cho vào hũ sành nút chặt bằng lá chuối khô, bỏ một ít vào hộp trà. Mỗi khi có khách đến lại đem ra pha mời khách uống. Khi mới 14 tuổi tôi biết thêm kinh nghiệm thử chè khô ngon: lấy ít chè để vào lòng bàn tay, miết cho nát nhuyễn ra, thấy màu xanh nâu mịn màng, có mùi thơm đặc trưng của chè là đảm bảo khi pha nước chè (trà) có màu xanh pha vàng và uống lúc đầu đắng chát nhưng lại ngọt hậu về sau...
 
Ngày nay quê tôi cũng như mọi miền khác, đời sống kinh tế đã phát triển vượt bậc. Cây trà vẫn là một trong những cây mũi nhọn của quê tôi. Những nông trường trồng nhiều chè và đầu tư lớn, có công nghệ máy móc chế biến chè. Từ khâu rang đảo đóng gói, ép chân không... những gói chè xinh xinh mang thương hiệu quê hương theo chân các nhà phân phối đi đến muôn nơi. Ở quê tôi, những hàng chè xanh trồng làm bờ rào đã thay bằng tường bê tông kiểu cách vững chắc. Nhưng cũng còn nhiều nhà vẫn giữ lại vài bụi để nấu nước uống giải khát, hay để rửa mặt cho đẹp da sạch mụn của các mẹ các chị em gái thân thương. Ở các cơ quan công sở ở vùng huyện, người ta cũng đã quen với việc sáng sáng, cô nhân viên văn phòng pha và ủ một bình nước chè xanh đặt trên phòng của lãnh đạo và phòng họp chung để mời khách và anh chị em trong văn phòng. Hương chè xanh thơm ngát khiến lòng người như xích lại gần nhau hơn, thân thiện và dễ mến hơn.
 
Tôi có lần đến nhà bạn, thấy có rặng chè xanh đang tua tủa búp non, liền ngỏ ý hái xin một nắm. Về nhà bật bếp gas lên thử sao chè như ông bà đã từng làm. Cũng vò cũng đảo (dù vừa làm vừa xuýt xoa do bỏng tay). Thành phẩm là chè khô nhưng không thể nào có được như những móc câu và có lớp phấn trắng lấm tấm bên ngoài. Nhấp ngụm trà pha trong chiếc ấm nhỏ, nghe làn hương bâng khuâng thơm mà nỗi nhớ thương quê nhà cùng hình ảnh những người thân yêu và hàng rào chè ở ngõ quê xưa cứ trào dâng trong lòng mãi không nguôi.
 
Bích Thiêm