11:07, 03/07/2015

Khói rơm chiều

Cái mùi rơm, mùi rạ thơm tho và lành sạch ít khi làm ta từ chối hay né tránh. Cũng có thể vì trên những cánh đồng rộng, không khí loãng ra trong những chiều gió nên dù có vào chính vụ đốt đồng đi chăng nữa, người đi bên này những bờ ruộng, triền đê hay những con đường làng nương theo bờ bãi vẫn không cảm thấy ngột ngạt vì khói.

Cái mùi rơm, mùi rạ thơm tho và lành sạch ít khi làm ta từ chối hay né tránh. Cũng có thể vì trên những cánh đồng rộng, không khí loãng ra trong những chiều gió nên dù có vào chính vụ đốt đồng đi chăng nữa, người đi bên này những bờ ruộng, triền đê hay những con đường làng nương theo bờ bãi vẫn không cảm thấy ngột ngạt vì khói. Tôi còn đồ rằng, khi trở về sau những năm tháng đi xa hay đơn giản chỉ là lần trở lại, không ít người đã cay cay con mắt chẳng phải vì khói mà vì họ đã gặp lại hương vị cũ, dư âm cũ. Cái mùi khói tưởng chừng như đã quên lãng đâu đó, bất chợt bị đánh thức trong nỗi xốn xang.

 


Buổi chiều hôm ấy, chừng như tôi đã gặp lại ký ức tuổi thơ. Nhớ những gốc rạ không hẳn là mềm mại dưới đôi chân trần non nớt khi lũn chũn chạy theo anh trai đang mải miết đuổi theo sợi dây diều. Hồi ấy, không phải tôi thích những con diều anh tôi hì hụi dán bằng giấy báo cũ, mà sợ anh bỏ quên tôi trên cánh đồng với không ít gương mặt trẻ con lạ lẫm khác. Nhớ là tôi đã bám chắc vào tay anh khi trở về trên con đường người ta phơi rơm, nước mắt nhòe nhoẹt dù được anh dỗ dành. Tôi nhớ lúc ấy tôi muốn về mách má lắm. Nhưng rồi có đôi chỗ đường rộng ra thành bãi, anh em chúng tôi đã nhoài mình trên những vạt rơm đến tận tối mịt. Đến nỗi khi trở về, không cần mách cũng bị má cho hai anh em một trận đòn vì ham chơi. Tôi nhớ đến chừng đi học, khi miền Bắc không nghe tiếng máy bay nữa, hình như vào quãng những năm 1973 - 1974, má vẫn đội lên đầu tôi một chiếc mũ rơm và dắt tôi đi học mãi tận trong làng, xa đến nỗi mỗi khi tự mình trở về, tôi lại đếm những cây rơm ở hai bên đường cho bước đi gần lại...


Ký ức rơm rạ của tôi chỉ chừng đó thôi cũng đã làm ngùi ngẫm hoài mỗi khi gặp lại mùi rơm, mùi khói, huống chi những người từ làng ra đi. Một đôi khi tôi bắt gặp sự thảng thốt trong những trang viết về rơm rạ, bắt gặp nỗi hoài nhớ quê qua dáng hình cây rơm. Cái thảng thốt dễ lây làm váng vất. Có lần theo xe chạy qua những cánh đồng đang vào mùa đốt đồng, tôi làm những người đồng hành ở huyện cười hoài khi cứ hạ cửa kính và nhoài mình đón khói.


Nhưng quả thật sau mùa, đồng quê bây giờ nhiều khói hẳn. Nhiều đến nỗi có khi người ta cùng đốt luôn trên cả chục thửa ruộng liền kề, khói rơm không còn khoáng đạt và dễ chịu nữa mà đã đen luôn cả một phía đường chân trời. Khi ấy khói rơm thật sự cay. Tôi vẫn còn nhớ nỗi ước ao làm thế nào tận dụng rơm và có nhiều hơn những chế phẩm từ rơm, để rơm không lụi tàn trong khói, để rơm quay trở lại tận hiến mình cho đời sống trong một chu trình khép kín mà bạn tôi - một cán bộ huyện ao ước. Nỗi ước ao cũng hiền như nụ cười và những chia sẻ gần gụi trong bóng chiều chạng vạng, khi những đám lửa đã tắt và màu khói khuất dần vào đêm. Không biết đến bây giờ, bạn tôi có còn giữ trong mình cái ao ước mang mùi khói?


Tôi đã có những chiều bình yên trong mùi lá khi má tôi lậm cậm gom đốt. Mùi lá thơm làm nhớ những ngày quá vãng quét lá nhãn để thay củi trên khoảng sân cơ quan nơi ba má tôi từng làm việc. Những cây nhãn ở đó giờ không còn nữa. Thay vào dãy nhà cấp bốn cũ kỹ bây giờ là những dãy nhà kiểu phố trong ngõ, hẹp và dài. Ba và anh tôi cũng đã đi xa mãi. Nhưng màu khói, mùi khói, dẫu cuộc sống đã thay đổi thế nào đi chăng nữa thì vẫn cứ còn đây, vẫn cứ làm thương nhớ những mong manh...


HẠNH NHI