
70 năm đã qua kể từ sự kiện 23-10-1945, những chiến sĩ năm xưa nay không còn nhiều; tuổi cao, sức yếu nhưng ký ức về những ngày tháng hào hùng của mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa vẫn còn vẹn nguyên.
70 năm đã qua kể từ sự kiện 23-10-1945, những chiến sĩ năm xưa nay không còn nhiều; tuổi cao, sức yếu nhưng ký ức về những ngày tháng hào hùng của mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa vẫn còn vẹn nguyên.
Ký ức hào hùng
Một ngày giữa tháng 10, tôi theo ông Trần Tô - Trưởng Ban liên lạc 23-10, Đại tá Hồ Thanh Kha (87 tuổi) thăm lại các điểm di tích gắn liền với mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa. Tượng đài 23-10 kiêu hãnh trong nắng, cùng tấm bia ghi tên liệt sĩ mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa vừa được xây dựng, bia phòng tuyến Ngã ba đường sắt - Chợ Mới... đã giúp những người lính năm xưa sống lại ký ức sôi nổi thời trai trẻ.
![]() |
Ngay sau đợt tấn công vào rạng sáng 23-10-1945, quân ta lập phòng tuyến Chợ Mới - Bretelle để ngăn quân địch mở rộng phạm vi chiếm đóng. Các đội quân Nam tiến kéo về tổ chức chiến đấu ngăn chặn địch. Đồng bào Nha Trang sơ tán ra ngoại thành ủng hộ cuộc chiến đấu của quân ta, nhiều người còn đem cả giường, tủ, cây dừa cho bộ đội làm công sự. Các làng vùng ven Xuân Phong (Vĩnh Phương), Thái Thông, Thủy Tú (Vĩnh Thái), Phú Nông, Xuân Lạc (Vĩnh Ngọc)... đều lập đội tự vệ chiến đấu, rèn thêm dao kiếm để đánh Tây; ngày đêm sát cánh cùng bộ đội đào công sự, chiến đấu, đào giao thông hào và luân phiên canh gác cùng bộ đội. “Khi chiến sự nổ ra, làng tôi cũng lập đội tự vệ chiến đấu với vũ khí là cây dao, lưỡi mác, tầm vông vót nhọn. Anh trai tôi cũng tham gia đội tự vệ của làng, tôi làm liên lạc cho mặt trận”, ông Trần Tô nhớ lại.
Đại tá Hồ Thanh Kha cho biết, khi tiếng súng mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa bắt đầu nổ, ông có mặt trong Chi đội Thuận Hóa do ông Nguyễn Kèn (Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm) chỉ huy chiến đấu ở Nha Trang. Những ngày đầu kháng chiến, địch liên tục tấn công để mở rộng vùng kiểm soát, nhưng cán bộ, chiến sĩ của ta anh dũng giữ vững phòng tuyến. Hầm bị vùi lấp anh em lại đào, sửa; người này hy sinh, bị thương có người khác xung phong thay thế. Nhiều chiến sĩ vệ quốc quân rất dũng cảm, vừa bị thương chưa lại sức đã xung phong ra các điểm chốt để chiến đấu, giữ giao thông đường sắt thông suốt... Theo Đại tá Hồ Thanh Kha, khi phòng tuyến Ngã ba đường sắt - Chợ Mới còn được giữ vững, chiến sự thường xảy ra dọc theo tuyến đường sắt nên không thể dùng đầu máy xe lửa kéo cả đoàn tàu. Đêm đêm dân quân cùng công nhân, bộ đội đẩy từng toa chở vũ khí, quân trang, quân dụng từ hầm đèo Rù Rì đến Ga Phú Vinh để tàu chạy kéo vào chi viện cho Nam bộ.
![]() |
| Chiến sĩ 23-10 kể chuyện lịch sử với học sinh Trường THCS Võ Văn Ký (Nha Trang) |
70 năm đã qua kể từ ngày đó, đứng trước tấm bia di tích phòng tuyến Ngã ba đường sắt - Chợ Mới, những cựu binh của mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa sống lại không khí căng thẳng của chiến trận hồi đó. “Pháo của địch ngày nào cũng dội thẳng vào mặt trận, rừng dừa ở Ngọc Hiệp bị pháo chặt đứt ngổn ngang. Tôi làm liên lạc ở ngay sở chỉ huy phòng tuyến, nhiều lần chứng kiến cảnh chiến đấu can trường của quân ta”, ông Trần Tô kể.
Trong tập hồi ký Mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa (xuất bản năm 2000), Đại tá Hà Văn Lâu, Thiếu tướng Hà Vi Tùng, Trung tướng Nam Long... đã kể lại nhiều trận chiến ác liệt ở phòng tuyến Ngã ba đường sắt - Chợ Mới, phòng tuyến Cây Da - Quán Giếng, Ga Phú Vinh gây cho địch rất nhiều tổn thất. Theo ông Goerges Alexandre Royer (người Pháp), niên giám quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương khi đề cập đến mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa có viết: “Đồn binh Pháp ở Nha Trang vào thời kỳ ấy đang trong tình cảnh nguy khốn, chừng một ngàn người Pháp gồm dân thường và binh lính bị giam chân tại chỗ do các đoàn quân Việt Minh bao vây một cách can đảm và quyết đoán...”. Một sĩ quan Pháp từng có mặt ở Nha Trang khi ấy kể lại: “Những con người Việt Nam nhỏ bé đã đẩy chúng tôi vào một cuộc sống khổ sở. Chúng tôi đành chiến đấu với họ. Nhưng tôi phải thú nhận rằng hồi ấy, họ can đảm và mãnh liệt trong các chiến trận”.
Tình quân dân thắm thiết
Trong những ngày đầu kháng chiến, người dân Nha Trang - Khánh Hòa đã đi theo tiếng gọi của Đảng, Bác Hồ, quyết tâm bảo vệ nền độc lập non trẻ của Tổ quốc. “Các đơn vị quân tình nguyện chiến đấu ở mặt trận Nha Trang khi ấy tổ chức rất gọn nhẹ. Doanh trại, chỗ dừng chân thì có nhà dân, lương thực dân đóng góp, cơm nước đã có các chị, các mẹ lo...”, Đại tá Hồ Thanh Kha nhớ lại. Ông Nguyễn Văn Dân (thôn Xuân Lạc, Vĩnh Ngọc) từng tham gia đưa cơm cho chiến sĩ mặt trận kể: “Khi chiến sự xảy ra, theo lời kêu gọi của Ủy ban Cách mạng lâm thời huyện Vĩnh Xương (Nha Trang ngày nay), người dân đã huy động lương thực, thực phẩm, xây lò nấu cơm cho bộ đội. Cơm nấu bằng chảo nấu đường, đến bữa cơm phải cử mấy chục người khiêng cơm cho bộ đội, có hôm chúng tôi đang khiêng cơm thì gặp máy bay bà già từ phía biển bay lên, mọi người phải ẩn núp... Khi giao cơm, chúng tôi và các chú bộ đội tay bắt mặt mừng, tình quân dân đậm đà”.
Ngày đó, hơn 40 nữ thanh niên, học sinh đã tự nguyện thoát ly gia đình tham gia Đoàn Hồng thập tự Nha Trang. Những cô gái trẻ đã sát cánh cùng các chiến sĩ ngay trên chiến hào để lo việc cứu thương, chăm sóc thương binh ở trạm quân y dã chiến. Bà Mai Thị Tùng (90 tuổi, từng tham gia Đoàn Hồng thập tự Nha Trang) cho biết: “Cứ 2 người phục vụ một đại đội, theo sát tận chiến hào. Sau mỗi trận quần nhau với địch, chúng tôi lại lao vào cứu chữa thương binh, có nhiều người vừa khiêng liệt sĩ vừa khóc như khóc chính người thân của mình”. Một ngày đầu tháng 1-1946, trong khi đang cứu thương ở trạm quân y tiền phương được đặt ở cây Dầu đôi (ngã ba Thành), bà Tùng nghe tin người em trai Mai Xuân Bá hy sinh trong trận chiến ở đèo Rù Rì. “Nghe tin em trai mất, tôi đau xót vô cùng nhưng phải nén nỗi đau để thực hiện nhiệm vụ. Tôi chăm sóc các chiến sĩ như chăm sóc em trai mình vậy...”, bà Tùng hồi tưởng.
Cùng với trạm y tế tiền phương được đặt ở cây Dầu đôi, một bệnh viện dã chiến đã được lập ra ở thôn Trường Lạc, xã Diên Lạc (Diên Khánh). Khi mặt trận có chủ trương lập bệnh viện, người dân nơi đây đã tự nguyện nhường nhà để làm phòng chữa trị thương binh, đóng góp lương thực thực phẩm ủng hộ cách mạng. Nhắc đến chuyện xưa, ông Hồ Chót (91 tuổi, thôn Trường Lạc) nhớ lại: “Ngày đó, nhà tôi cùng các gia đình xung quanh như: Hồ Kính, Trần Thị Minh Tu, Lê Đức Hượt... đã nhường nhà để làm bệnh viện. Ông Hồ Xuân Anh (Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn) cùng nhiều cán bộ của các đơn vị vệ quốc quân đã được điều trị ở bệnh viện này. Vợ chồng bà Tu còn trực tiếp chăm sóc thương bệnh binh, mua gỗ đóng quan tài chôn cất liệt sĩ”.
Theo ông Lê Đức Hồng (87 tuổi, thôn Trường Lạc), hồi đó tinh thần cách mạng của người dân lên rất cao, người dân tự nguyện đóng góp “hũ gạo nuôi quân”, hái hoa quả trong vườn tặng thương binh. Nhà ông Hồng cũng nhường chỗ để bác sĩ về ở, dược sĩ bào chế thuốc cấp cứu thương binh. Khi có người hy sinh, người dân cùng nhân viên ở bệnh viện đưa đi chôn ngay cạnh đình Trường Lạc. Nhiều ngôi mộ của các chiến sĩ hy sinh ngày ấy đã được đồng bào nơi đây giữ gìn, chăm sóc đến sau ngày miền Nam giải phóng mới quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Diên Khánh.
Năm tháng trôi qua, những dấu tích xưa không còn nhiều nhưng trang sử hào hùng của mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa vẫn không bao giờ mờ phai. “Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam rất khen ngợi các mặt trận miền Nam, đặc biệt là chiến sĩ ở Nha Trang và Trà Vinh đã làm gương anh dũng cho toàn quốc. Tổ quốc biết ơn các bạn. Toàn thể đồng bào noi gương các bạn”, những lời khen ngợi của Bác Hồ trong lá thư gửi chiến sĩ miền Nam tháng 12-1945 mãi mãi khắc ghi tinh thần tiên phong, anh dũng của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân ở mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa.
THÀNH NGUYỄN
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, mở rộng chiếm đóng các tỉnh Nam Bộ. Đầu tháng 10-1945, Pháp đưa chiến hạm Richelieu đến phong tỏa vùng biển Nha Trang, đổ bộ gần 1.000 quân lên bãi biển phía trước Khách sạn Beau Rivage (nay là Khách sạn Hải Yến), tổ chức chiếm các vị trí then chốt nhằm đánh chiếm Nha Trang - Khánh Hòa, cắt đứt đường chi viện của quân dân cả nước cho mặt trận miền Nam. Rạng sáng 23-10-1945, quân ta đồng loạt tấn công ga xe lửa, nhà đèn, kho Bình Tân... sau đó rút ra lập phòng tuyến kìm chân quân địch, kiên quyết giữ vững giao thông Bắc - Nam, đảm bảo cho việc chi viện để Nam Bộ kháng chiến. Quân ta đã lập phòng tuyến Ngã ba đường sắt - Chợ Mới (23-10-1945 - 23-11-1945), rồi phòng tuyến Cây Da - Quán Giếng để cầm chân địch (23-11-1945 - 2-2-1946). Sau 101 ngày đêm chiến đấu anh dũng, trước sức ép tấn công ngày càng lớn của quân địch, để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, toàn bộ lực lượng của ta trên các phòng tuyến và ở Thành (Diên Khánh) đã rút ra Tứ Thôn Đại Điền và lên căn cứ Đồng Trăng.






