Bắp cải là loại rau được sử dụng phổ biến trong bữa ăn của người Châu Á. Mới đây, các nhà khoa học Isarel phát hiện bắp cải chứa hoạt chất có thể ngăn ngừa kháng kháng sinh, một tình trạng nguy cấp đe dọa sức khỏe cộng đồng toàn cầu hiện nay.
Bắp cải là loại rau được sử dụng phổ biến trong bữa ăn của người Châu Á. Mới đây, các nhà khoa học Isarel phát hiện bắp cải chứa hoạt chất có thể ngăn ngừa kháng kháng sinh, một tình trạng nguy cấp đe dọa sức khỏe cộng đồng toàn cầu hiện nay.
1. Mức độ kháng kháng sinh ngày càng nghiêm trọng
Thuốc kháng sinh là loại thuốc được sử dụng để điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn. Tuy nhiên, do lạm dụng nên tình trạng kháng kháng sinh đã trở nên phổ biến.
Năm 2021, Tổ chức Y tế Thế giới đã gọi tình trạng kháng thuốc kháng sinh là một trong 10 mối đe dọa sức khỏe cộng đồng toàn cầu mà nhân loại phải đối mặt.
Cho đến nay, tình trạng kháng kháng sinh vẫn chưa thuyên giảm mà ngày càng có nhiều vi khuẩn kháng không chỉ một mà nhiều loại thuốc kháng sinh. Điều này có nghĩa là thuốc kháng sinh trở nên mất tác dụng và các bệnh nhiễm khuẩn ngày càng khó điều trị.
Do đó, nhiều quốc gia trên thế giới đang săn lùng các phương pháp điều trị thay thế để chống lại vi khuẩn gây bệnh cũng như những cách ngăn chặn tình trạng kháng kháng sinh.
2. Phát hiện hợp chất mới trong bắp cải
GS.TS. Arturo Casadevall, chủ nhiệm bộ môn Vi sinh phân tử và Miễn dịch học tại Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins Bloomberg (Mỹ) cho biết, khi vi khuẩn lây nhiễm vào vết thương, chúng tạo thành màng sinh học làm chậm quá trình chữa lành. Trong nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học từ Đại học Ben-Gurion ở Negev, Isarel đã xác định được một hợp chất có trong các loại rau lá xanh như súp lơ xanh và bắp cải có tác dụng ức chế sự phát triển của các màng sinh học này.
Theo đó, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra hợp chất 3, 3,- diindolylmethane (DIM) giúp tăng tốc độ chữa lành vết thương và giúp khôi phục hiệu quả của thuốc kháng sinh trong việc chống nhiễm khuẩn.
3. Đặc tính kháng khuẩn của DIM
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã tìm hiểu tác động của DIM đối với màng sinh học được hình thành bởi vi khuẩn gây bệnh.
Các nhà nghiên cứu đã điều tra bốn vi khuẩn gây bệnh nguồn gốc gram âm, có khả năng kháng kháng sinh cao là Pseudomonas aeruginosa PAO1, Acinetobacter baumannii, Serratia marcescens, và chủng Providencia stuartii. Kết quả cho thấy, ở cả 4 loại vi khuẩn, DIM làm giảm đến 80% sự hình thành màng sinh học.
PGS. TS. Satola, Đại học Emory (Mỹ) cho biết, sự hình thành màng sinh học đã bị DIM ức chế rõ rệt ở hai trong số các vi khuẩn gây bệnh được nghiên cứu. Cả hai đều là vi khuẩn gram âm. Hy vọng tác dụng này cũng có thể xuất hiện đối với các vi khuẩn gram dương.
Sau những phát hiện ban đầu, các nhà nghiên cứu sau đó tập trung vào A. baumannii và P. aeruginosa, cả hai đều kháng nhiều loại thuốc và có ý nghĩa lâm sàng. Trong thí nghiệm này, 50µM DIM ức chế sự phát triển của màng sinh học của từng vi khuẩn lần lượt là 65% và 70%.
Khi DIM được kết hợp với kháng sinh tobramycin, sự phát triển màng sinh học của P. aeruginosa bị ức chế tới 98%.
Nghiên cứu trên lợn, các nhà khoa học đã cho lây nhiễm P. aeruginosa với những vết thương nghiêm trọng. Khi màng sinh học đã phát triển, họ bôi kem có công thức DIM và / hoặc kháng sinh gentamycin tại chỗ ba lần một tuần trong 10 ngày. Kết quả cho thấy kích thước vết thương giảm đáng kể.
Quan trọng hơn, các nhà khoa học cũng nhận thấy chỉ riêng thuốc kháng sinh đã không ức chế được sự hình thành màng sinh học do vi khuẩn có khả năng kháng thuốc. Tuy nhiên, việc kết hợp kháng sinh với DIM dường như đã khôi phục hiệu lực của kháng sinh để chống lại P. aeruginosa.
4. Phát hiện đầy hứa hẹn trong loại rau thường ngày
Theo các nhà nghiên cứu, DIM có thể được sử dụng trong liệu pháp kết hợp với thuốc kháng sinh để nâng cao tiềm năng điều trị vi khuẩn kháng thuốc. Hơn thế nữa, DIM là một dẫn xuất của indole-3-carbinol, mà Indole-3-carbinol lại được hình thành từ glucobrassicin và myrosinas khi các loại rau xanh như bông cải xanh, cải xoăn, rau bina và súp lơ được nấu chín hoặc nhai. Trong môi trường axit của dạ dày con người, nó được phân hủy thành DIM.
Một số nghiên cứu trước đây cho rằng DIM có thể điều chỉnh estrogen ở những người mắc bệnh tăng sinh tuyến giáp và một vài lợi ích với những người bị ung thư vú.
Theo Sức khỏe & Đời sống