Những ngày qua, miền Trung nhiều nơi ngập trong biển nước. Bên cạnh những thương vong mất mát về người và tài sản, đồng bào vùng lũ lụt còn phải đối mặt với nguy cơ bệnh tật.
Những ngày qua, miền Trung nhiều nơi ngập trong biển nước. Bên cạnh những thương vong mất mát về người và tài sản, đồng bào vùng lũ lụt còn phải đối mặt với nguy cơ bệnh tật.
Những hiểu biết sau đây về các bệnh mắt dễ gặp phải trong hoàn cảnh bão lũ sẽ giúp nhân viên y tế, đồng bào miền Trung phòng ngừa, giảm nhẹ được những phiền toái do bệnh mắt trong hoàn cảnh hiện nay.
Vì sao trong lũ lụt dễ mắc bệnh đau mắt?
Lượng mưa lớn liên tục trong vòng mấy tuần, cùng độ dốc địa hình lớn rửa trôi rất nhiều chất bẩn của môi trường. Nước ngập làm lắng đọng và hòa tan các chất độc hại, chất gây kích ứng và dị ứng... Vì thế, các bệnh lý liên quan đến nước bẩn trong đó có bệnh mắt sẽ dễ dàng bùng phát trong lũ và sau lũ 10 ngày.
Môi trường vùng nước ngập hay trong bão lũ có độ ẩm gần như tuyệt đối, nhiệt độ môi trường từ 20 - 30 độ C khiến các vi sinh vật gây bệnh cho mắt sẽ hoạt động mạnh mẽ hơn, gây bệnh nhiều hơn, trong khi đó nước bẩn sẽ là môi trường lan truyền bệnh dễ dàng nhất. Do vậy phòng ngừa bệnh mắt luôn phải đi kèm vệ sinh mắt với vệ sinh môi trường.
Viêm kết mạc và mắt hột đặc biệt sẽ gia tăng ở cộng đồng thiếu nước sạch. Ngoài ra, mưa lụt có thể gây bệnh viêm hắc võng mạc hoại tử do ký sinh trùng mang tên Toxoplasma Gondii, vốn rất dễ lây truyền qua nước bẩn như đã từng xảy ra ở Braxin.
Lứa tuổi dễ mắc các bệnh mắt thuộc 2 nhóm yếu và nhạy cảm là trẻ em dưới 15 tuổi và người lớn trên 65 tuổi.
Viêm kết mạc
Trên thực tế, viêm kết giác mạc (VKM) vẫn là bệnh phổ nhất trong mùa bão lũ ở miền Bắc, miền Trung và mùa nước nổi ở miền Nam.
VKM là dạng viêm nhiễm nặng nhất do adenovirus. Sự lây truyền thường xảy ra ở những quần thể nhỏ, có sự tiếp xúc gần giữa các cá nhân. Thường biểu hiện ở một bên mắt (2/3 các trường hợp), không có biểu hiện toàn thân. Sau một thời gian ủ bệnh khoảng 8 ngày, mắt trở nên đỏ, gỉ mắt lẫn với nước kèm theo cảm giác có dị vật trong mắt. Các dấu hiệu khác có thể thấy như sưng đau hạch trước tai, kết mạc sụn mi có hột nổi lên. Hai biểu hiện này gợi ý cao độ bệnh nhân bị VKM do adenovirus và giúp cho định hướng chẩn đoán lâm sàng.
VKM luôn kèm theo đỏ mắt và có thể có giả mạc. Các biểu hiện khác là hơi sợ sáng, sưng phù kết mạc, xuất huyết nhẹ dưới kết mạc. Mắt còn lại cũng bị bệnh, thường sẽ xảy ra sau 4-5 ngày kể từ ngày khởi phát, biểu hiện nhẹ nhàng hơn so với mắt thứ nhất do cơ thể đã bắt đầu có miễn dịch chống lại virus.
Điều trị: Chủ yếu là điều trị triệu chứng bằng nhỏ nước muối sinh lý nhiều lần, tra nhỏ kháng sinh hoặc kháng sinh có kèm cortisol trong thời gian ngắn, bệnh có xu hướng giảm dần và khỏi hẳn sau 7-10 ngày. Nếu kéo dài hơn, kèm theo chói mắt, sợ sáng, nhìn mờ là đồng nghĩa với có biến chứng. Bệnh nhân lúc này được khuyên nên đi khám và điều trị tại cơ sở chuyên khoa.
Bệnh mắt hột hay viêm kết mạc có hột do Chlamydia
Viêm kết mạc có hột, biểu hiện ở hột đại xuất hiện cả ở kết mạc mi trên và mi dưới. Mắt cương tụ vừa phải nhưng viêm kết mạc thể này có xu hướng dai dẳng, gây cộm và khó chịu mạn tính. Nếu điều trị không kiên trì hay dùng sai thuốc, các hột viêm sẽ tồn tại đến vài tháng, cuối cùng vỡ để lại sẹo trên kết mạc. Di chứng có thể là khô mắt do sẹo kết mạc, lông quặm lông xiêu.
Ở dạng tái nhiễm liên tục do dùng nước bẩn, khăn mặt bẩn, chậu rửa chung, ruồi muỗi nhiều... viêm kết mạc có hột có tên là bệnh mắt hột, căn bệnh gây mù lòa chủ yếu ở thế kỷ XIX. Mù lòa chủ yếu do lông quặm, lông xiêu chọc vào giác mạc gây viêm loét, hóa sẹo hay loét thủng.
Ở dạng cấp tính như trong đợt bão lụt, không có nước sạch để dùng hay lây nhiễm qua đường mắt-mắt (bơi lội) hay cơ quan sinh dục-mắt (vi khuẩn còn gây viêm tiết niệu sinh dục cho cả nam và nữ), tổn thương ở mắt điển hình là viêm kết mạc có hột to. Dạng cấp tính ngày nay gặp nhiều hơn và phổ biến hơn trên người trẻ, cũng khá phổ biến đóng góp vào những bệnh nhân “đau mắt đỏ” trong mùa bão lũ.
Điều trị: Ngoài vệ sinh mắt và kiêng cữ để khỏi tái nhiễm thì vi khuẩn chlamydia nhậy cảm với kháng sinh tra nhỏ hoặc uống thuộc nhóm: phenicol, cycline, sulfamid, macrolite. Bệnh sẽ khỏi sau 4-6 tuần điều trị tra nhỏ tại mắt và uống thuốc.
Các viêm nhiễm mắt khác và biện pháp phòng ngừa
Viêm bờ mi, viêm kết mạc, viêm dị ứng, viêm kích ứng do hóa chất làm sạch nước (clo nồng độ cao), chắp lẹo... đều có thể gặp do vi sinh vật gây bệnh, chất độc và chất kích ứng... vốn rất dồi dào trong nước mưa- nước bẩn- nước tù đọng hay nước cặn. Do đó, nhu cầu tái lập cung cấp nước sạch để rửa mắt, rửa mặt là tối quan trọng trong việc phòng bệnh và chống lây lan bệnh mắt trong mùa mưa lũ. Bên cạnh đó việc rửa tay thường xuyên bằng xà phòng cũng rất cần thiết. Nếu bắt buộc phải ngâm trong nước lụt, khi về ta có thể rửa mắt bằng nước muối hoặc xối rửa bằng kháng sinh tra nhỏ có chloramphenicol (cloroxit) 0,4%, gentamycine 0,3%. Nên tuyệt đối tránh việc dùng khăn mặt, chậu rửa chung.
Tuy bệnh mắt không phải là bệnh nguy hiểm đến sinh mạng nhưng là bệnh xuất hiện nhiều trong mùa mưa lũ. Để phòng bệnh cần chuẩn bị các dụng cụ thuốc men phòng dịch bao gồm nước javel, viên làm sạch nước, xô chậu, nước sạch đóng chai, một số thuốc sát trùng da và chloramphenicol - một kháng sinh phổ rộng dùng tốt cho cả viêm kết mạc dịch và phòng được bệnh mắt hột. Đây có thể coi như là một bộ kit phòng bệnh, xử lý môi trường tối cần thiết cho hoàn cảnh bão lũ.
Lưu ý, trong sinh hoạt hàng ngày của bà con vùng lũ lụt còn có thể xảy ra những tai nạn mắt, cơn thiên đầu thống, viêm màng bồ đào... Trong những trường hợp này phải chuyển bệnh nhân về cơ sở chuyên khoa mắt gần nhất để được điều trị kịp thời.
Theo Sức khỏe & Đời sống