Ông Phan Văn Giáp - Phó Chi cục trưởng Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tỉnh cho biết, chủ đề của ngày Dân số Thế giới năm 2019 là: "25 năm sau hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển (ICPD): Thúc đẩy tiến độ nhằm đạt được những nội dung đã cam kết".
Ông Phan Văn Giáp - Phó Chi cục trưởng Chi cục Dân số (DS) - Kế hoạch hóa gia đình tỉnh cho biết, chủ đề của ngày DS Thế giới năm 2019 là: “25 năm sau hội nghị quốc tế về DS và phát triển (ICPD): Thúc đẩy tiến độ nhằm đạt được những nội dung đã cam kết”.
- Xin ông cho biết, đến nay, ngành DS tỉnh đã đạt được những thành tựu gì sau hội nghị quốc tế về DS và phát triển?
- Trong 25 năm qua, công tác DS trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào thành công chung của cả nước. Đến năm 2018, mức sinh giảm 55%, từ hơn 32‰ (trước năm 1994) xuống còn 14,45‰. Số con trung bình/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm hơn 58%, từ 4,3 con giảm còn 1,75 con/phụ nữ. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm 81%, từ hơn 45% giảm còn 8,26%. Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại tăng hơn 2 lần, từ 36% lên 75%. Tỷ lệ tăng DS giảm từ hơn 1,7%/năm xuống còn dưới 1%/năm. Cơ cấu DS chuyển dịch theo hướng tích cực, từ cơ cấu DS trẻ (trên 16 tuổi) chiếm trên 40% xuống còn khoảng 23%. Tỷ lệ DS phụ thuộc từ 80% xuống còn 43%, đạt cơ cấu “DS vàng” từ năm 2007. Suy dinh dưỡng trẻ em nhỏ hơn 5 tuổi (cân nặng theo tuổi) từ 50% giảm còn 8,6%. Số mẹ chết do thai sản từ 70/100.000 ca giảm xuống còn 25,5/100.000 ca…
- Hiện nay, ngành DS tỉnh gặp những khó khăn, thách thức gì khi thực hiện chương trình DS và phát triển, thưa ông?
- Hạn chế của ngành DS tỉnh hiện nay là chênh lệch lớn mức sinh giữa các vùng, miền, tỷ suất sinh của 2 huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh vẫn còn ở mức cao (18,7 - 19,89‰) so với mức chung của tỉnh là 14,45‰. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên còn hơn 20 - 25% so với tỷ lệ chung của tỉnh là 8,26%. Thông tin, số liệu thống kê chuyên ngành chưa hoàn thiện, còn có độ chênh lệch về báo cáo thống kê DS so với biến động dân cư thực tế. Nhận thức về DS - phát triển, công tác DS trong tình hình mới ở các cấp, ngành và cộng đồng còn hạn chế.
Trong khi đó, khó khăn kinh phí đầu tư từ chương trình mục tiêu giảm, đặc biệt là kinh phí cho hoạt động truyền thông thường xuyên không được phân bổ. Nguồn phương tiện tránh thai miễn phí từ chương trình mục tiêu thiếu, nguồn cung gián đoạn, không đáp ứng nhu cầu cho đối tượng thuộc chính sách xã hội của tỉnh. Chương trình tiếp thị xã hội phương tiện tránh thai còn hạn chế, chưa được người dân hưởng ứng nhiều. Chương trình xã hội hóa các phương tiện tránh thai khó thực hiện, do không có đơn vị cung ứng phương tiện tránh thai trên địa bàn tỉnh (trúng thầu theo quy đinh). Về sàng lọc sơ sinh nhằm nâng cao chất lượng DS gặp khó khăn khi kinh phí chương trình mục tiêu chỉ hỗ trợ cho đối tượng chính sách, chưa có cơ chế về xã hội hóa để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cộng đồng. Vì vậy, ngành DS tỉnh đang đứng trước các thách thức về nhu cầu phương tiện tránh thai còn lớn, đảm bảo nhu cầu sử dụng nhằm duy trì mức sinh thay thế. Tỷ số giới tính khi sinh ở mức cao và vẫn có xu hướng gia tăng. Già hóa DS nhanh, chưa có sự chuẩn bị các điều kiện để thích ứng với xu hướng chuyển đổi nhân khẩu học này…
- Xin cảm ơn ông!
Minh Thiết (Thực hiện)