03:01, 15/01/2013

Người dân khát nước sinh hoạt

Nước giếng bị nhiễm phèn, nhiễm mặn; hệ thống cung cấp nước của xã thì không đảm bảo cả về lượng và chất khiến phần lớn người dân Ninh Sơn (Ninh Hòa, Khánh Hòa) bị thiếu nước sinh hoạt.

Nước giếng bị nhiễm phèn, nhiễm mặn; hệ thống cung cấp nước của xã thì không đảm bảo cả về lượng và chất khiến phần lớn người dân Ninh Sơn (Ninh Hòa, Khánh Hòa) bị thiếu nước sinh hoạt.

Nguồn nước ô nhiễm

Ngoài những hộ dân may mắn có giếng nước đỡ chua, đỡ mặn, phần lớn hộ dân ở xã Ninh Sơn quanh năm phải chật vật lo nước sinh hoạt. Thậm chí, từ nửa tháng nay, nước không đảm bảo vệ sinh để người dân tắm giặt, không đủ để phục vụ chăn nuôi vì hệ thống cấp nước của xã tạm ngừng hoạt động do nguồn nước đầu vào bị ô nhiễm.

Nguồn nước đầu vào của hệ thống cấp nước không đảm bảo vệ sinh.
Nguồn nước đầu vào của hệ thống cấp nước không đảm bảo vệ sinh.

Sau buổi sáng đi làm rẫy về, ông Phạm Mẫn (thôn 3) vội vàng chở can sang xã Ninh An để xin nước giếng về nấu cơm và đun nước uống. Còn bà Lê Thị Mỹ, vợ ông Mẫn thì phải múc từng ca nước màu vàng nhạt trong bể ra giặt đồ. Bà Mỹ cho biết, nguồn nước mà bà đang giặt đồ là từ hệ thống cấp nước lọc thô của xã, nhưng do nguồn nước này lúc có lúc không, có khi cắt nước cả chục ngày nên gia đình bà phải xây 2 bể để dự trữ. Bà Mỹ nói: “Nhà tôi bỏ ra gần 1 triệu đồng để mắc “nước máy” này. Hiện tại, giá mua nước là 3.500 đồng/m3, nhưng nước không đảm bảo vệ sinh, chúng tôi chỉ sử dụng để tắm giặt và phục vụ chăn nuôi chứ không dám dùng nấu ăn”. Dù vậy, hệ thống cấp nước của xã cũng đã tạm ngừng gần nửa tháng nay nên các bể dự trữ nước của gia đình bà Mỹ đã cạn. Bà Lê Thị Kim Hường, gần nhà bà Mỹ cũng cho biết: “Nước giếng ở vùng này bị nhiễm phèn, nhiễm mặn nên người dân đều phải đi xin nước giếng ở Ninh An về dùng. “Nước máy” chỉ để tắm giặt và cho bò uống. Nhưng hôm nay “nước máy” cũng cúp, tôi phải đi xách nước ao về giặt đồ”.

Những gì còn lại của hệ thống cấp nước đã “trùm mền”.
Những gì còn lại của hệ thống cấp nước đã “trùm mền”.

Không chỉ ở thôn 3, hầu hết hộ dân ở 4 thôn còn lại của xã Ninh Sơn cũng chung cảnh thiếu nước sinh hoạt nếu không có giếng và đang đấu nối với nguồn “nước máy” này. Ông Bùi Đình Khương - Phó Chủ tịch UBND xã Ninh Sơn (phụ trách lĩnh vực môi trường) cho biết: “Hệ thống cấp nước sinh hoạt của xã đang sử dụng đã xây dựng trên dưới chục năm và đã nối mạng trên toàn xã để cung cấp cho dân. Hệ thống cấp nước này chỉ lọc thô, nhưng nguồn nước đầu vào lại chảy từ hồ Đá Bàn qua khu dân cư và khu vực đồng ruộng với chiều dài khoảng 2km nên đã bị ô nhiễm trước khi đến trạm bơm cấp nước. Do đó, nguồn nước từ hệ thống này chắc chắn không đảm bảo vệ sinh”. Ông Nguyễn Đức Hổ, người đấu thầu hệ thống cấp nước này cũng thông tin: “Trước khi đến trạm bơm, nguồn nước đầu vào chảy qua khu dân cư và khu đồng ruộng, mang theo cả nước thải, chất thải sinh hoạt và cả thuốc bảo vệ thực vật..., vì vậy nước của hệ thống này chắc chắn bị ô nhiễm. Nhà tôi cũng mắc hệ thống nước này nhưng chưa bao giờ dám dùng để ăn uống. Hiện cánh đồng ven con mương nước nguồn đang vào vụ gieo sạ, nguồn nước đầu vào càng bị ảnh hưởng bởi thuốc và phân nông nghiệp, tôi đang tạm bơm cung cấp nước cho bà con”.  

 Hệ thống cấp nước không hiệu quả

 “Nước máy” để tắm giặt nay cũng khan hiếm do hệ thống tạm ngưng hoạt động.
“Nước máy” để tắm giặt nay cũng khan hiếm do hệ thống tạm ngưng hoạt động.

Từ năm 2007, xã Ninh Sơn có 2 hệ thống cấp nước sinh hoạt (lọc thô) được nối mạng đến tất cả đường chính của các thôn trong xã. Nhưng thực tế, chỉ có hệ thống cấp nước được xây dựng đầu tiên (cách đây khoảng 10 năm) là đang hoạt động. Còn hệ thống cấp nước được xây dựng năm 2007, với kinh phí gần 1 tỷ đồng thì đã “trùm mền” chỉ sau 1 tháng đưa vào sử dụng do thiết kế quá chênh lệch giữa công suất máy bơm và nguồn điện chạy máy. Do vậy, tiếng là có 2 hệ thống cấp nước đấu nối, nhưng thực ra, từ trước đến nay, việc cấp nước chỉ do một hệ thống cung cấp đảm nhận. Theo ông Nguyễn Đức Hổ, năm 2006, ông cùng một người bạn đấu thầu hệ thống cấp nước của xã. Họ trực tiếp quản lý, vận hành hệ thống, thu tiền của khách hàng và phải chịu chi phí tiền điện chạy máy cũng như tiền hợp đồng với UBND xã. Sau khi trừ các chi phí, số tiền còn lại không được là bao nên đến năm 2009, người bạn của ông Hổ không làm nữa, chỉ còn ông Hổ bám trụ cho đến nay. “Hệ thống cấp nước này công suất rất nhỏ, thiết kế ban đầu máy bơm 3CV không thể bơm nổi. Tôi lần lượt bỏ tiền nâng cấp 2 máy 7CV nhưng đã bị mất trộm, hiện tôi sử dụng máy 25CV nên việc bơm nước lên bể lắng trên đồi rất dễ dàng. Tuy nhiên, do hệ thống đường ống đầu ra đã xuống cấp, rò rỉ ngầm nhiều chỗ nhưng không biết để khắc phục nên nước xuống rất yếu, thậm chí, có nhiều nhánh nước không về được. Tuy 2 năm nay không phải đóng tiền cho xã nữa, nhưng do đường ống rò rỉ, nước bị thất thoát nhiều hoặc nước ô nhiễm, dân không sử dụng nên nhiều tháng, tôi vẫn chịu lỗ. Nhiều lần, tôi đã xin nghỉ làm nhưng là đại biểu HĐND và được lãnh đạo xã động viên tiếp tục đảm nhận việc vận hành hệ thống cấp nước để phục vụ dân nên tôi vẫn bám trụ”, ông Hổ chia sẻ.

Được biết, năm 2010, có trên dưới 500 hộ dân trên địa bàn đấu nối sử dụng nguồn nước của hệ thống cấp nước sinh hoạt của xã. Nhưng đến nay, chỉ còn chưa đầy 1/3 số hộ dân còn sử dụng nguồn nước này để tắm giặt và phục vụ chăn nuôi.

NAM ANH