Trong vườn, có một khoảng nhỏ bà trồng đủ các thứ rau: chân vịt, mã đề, diếp cá, cả rau dền đất. Bà dùng thân lau nẹp thành liếp, ken dày đến nỗi gà cũng không chui vào được. Suốt ngày bà ở ngoài đám đất, cuốc xới, nhặt cỏ dại, thuốc nam hết cả. Mùa hè bà luộc rau sam, rau chân vịt "ăn cho nó mát", nhưng đến bữa cả nhà chỉ ăn hết góc đĩa, bởi nó cứ nhơn nhớt, nhàn nhạt thế nào ấy.
Trong vườn, có một khoảng nhỏ bà trồng đủ các thứ rau: chân vịt, mã đề, diếp cá, cả rau dền đất. Bà dùng thân lau nẹp thành liếp, ken dày đến nỗi gà cũng không chui vào được. Suốt ngày bà ở ngoài đám đất, cuốc xới, nhặt cỏ dại, thuốc nam hết cả. Mùa hè bà luộc rau sam, rau chân vịt "ăn cho nó mát", nhưng đến bữa cả nhà chỉ ăn hết góc đĩa, bởi nó cứ nhơn nhớt, nhàn nhạt thế nào ấy.
Hơi nóng sốt một tí là y như rằng bà nhai diếp cá bắt đắp lên trán, hôi ơi là hôi. Chỉ bữa nào có cua đồng, mẹ nhổ rau dền đất nấu canh, cô Sửu mới khen ngon.
Ngày cô Sửu đám cưới, đám thanh niên hè nhau đạp gãy cái hàng rào của bà để vào xem cái video bố đem từ trên huyện về chiếu bộ phim đánh chém nhau của Hồng Kông. Sáng sau ra vườn, thấy đất bị dẫm đạp vô số dấu giày, rau có nát bét lẫn với đầu mẩu thuốc lá, bà sốt ruột chửi um, đến nỗi mẹ phải gắt bà mới thôi. Chiều lại đã thấy bà mang cuốc chét ra cuốc xới. Chú Thao từ bên kia đồi vác sang mấy bó lau, lụi hụi trồng lại cái liếp rào cho bà. Bố cằn nhằn: "Không có việc bà nghỉ cho khoẻ, việc gì phải đất với cỏ". Bà thở dài, dặn nhỏ: "Nhớ dội vào cái máng sau nhà cho bà để bà tưới cây".
Lối dẫn ra nhà chú Thao băng qua một vạt đồi cỏ léc cao quá đầu người. Men bờ khe có hơi nước, léc xanh um tùm, lá to và dài, trông rợn cả người. Trong rừng không có loại cây nào lá sắc như cây léc, chỉ cần vương nhẹ, nghe đau, y như rằng lá léc cắt. Thế nhưng chú Thao không phát đường, cứ đạp léc xuống mà đi, thân léc gãy máng vòng. Mùa khô, những người đi bứt lá về hễ mưa xuống trên phiến léc thỉnh thoảng có vắt, sên, nên con đường hầu như bỏ hoang. Lâu ngày, từ những gốc léc gãy, những mầm léc non lá tươi và mềm vươn lên vẫy vẫy.
Chú Thao là người trở về cuối cùng của xóm. Ngày chú ôm chiếc túi lép bước vào cổng nhà, thím Hồng đã hai mặt con, ở với chồng bên chợ, cách sông và một thôi đường. Bà ôm lấy chú mà khóc, mà kể lể thôi là kể lể. Mẹ và cô Sửu khóc thút thít. Chú đứng trước bàn thờ mình, chẳng nói gì, cơ má trái giật giật. Mặt chú trông chẳng giống mặt người trong ảnh, phía hay giật giật đen một mảng và đầy sẹo nhỏ.
Bà nhắn qua chợ cho thím Hồng. Thím về có một mình, mắt đỏ hoe. Vừa thấy chú Thao thím liền sụp xuống lạy. Cơ má trái của chú càng giật mạnh hơn. Chú bảo: "Sự thể đã thế, đừng nghĩ ngợi gì. Cố mà sống vuông tròn với người ta". Thím Hồng về, rồi lâu không thấy sang nữa.
Ở nhà được ít lâu, chú Thao làm cái nhà bây giờ. Căn nhà lúc mới dựng nằm chỏng lỏn giữa bạt ngàn cỏ léc, đứng xa không trông thấy. Chú Thao cặm cụi cuốc đất trồng khoai, trồng sắn. Ðất tốt, chả mấy chốc vườn chú đã có cái để thu hoach. Bây giờ, những cây xoài, cây mãng cầu đã lớn nhanh lên khỏi ngọn léc. Nghe đâu chú còn định xin xã cho khai phá mấy vạt đồi phía sau để trồng bạch đàn nhưng xã không cho. Ông Bính chủ tịch nói là đất ấy nhiều bom đạn, đụng vào lỡ xảy ra chết chóc, không ai chịu trách nhiệm. Chú gặp bố nhờ nói hộ. Bố bảo: "Không dễ", chú nhắc lại: "Vâng, không dễ", rồi về.
Những chiều muộn chăn trâu bên này đồi nghe vẳng từ bên kia tiếng sáo dặt dìu nôn nao. Tiếng sáo phảng phất trong sương khói chiều nghe có cái gì quằn quại trong lòng. Cả rừng léc rập rờn theo tiếng sáo. Lũ chăn trâu đứng ngẩn quên cả ngày đang tắt, quên cả đói và lạnh. Dứt tiếng sáo chúng mới lục đục lùa trâu về, thầm thì kháo nhau: "Ông Thao trông mặt sợ thế mà thổi sảo hay tàn bào, nhỉ!".
Bà kể, ngày con gái thím Hồng xinh nhất làng Thượng, nhà đã gả chồng rồi vẫn nhất quyết chối chỉ bởi mê tiếng sáo chú Thao. Ðêm văn nghệ nào có chú thổi sáo; thanh nữ đứng xem đông nghịt, hết thảy đều ngây ngất. Tiếng sáo như có bùa quyến rũ hết con gái làng, đến nỗi trai làng có bận doạ bẻ hết ống sáo chú Thao, cấm chú thổi. "ấy vậy mà bây giờ...". Nói thế, bà lại khóc. Mỗi lần nghe bà khóc, cô Sửu nhăn mặt: "Ai người ta cũng biết, mẹ kể làm gì".
Quãng gần Tết mấy cây chanh ghép trong vườn chú Thao trổ bói. Giữa một vùng chỉ có cỏ là cỏ, hương chanh ngọt ngào, tinh khiết. Ong rừng nương theo mùi hương rủ nhau bay về, rập rờn trên những vầng hoa trắng. Chú Thao ngồi hàng buổi trầm ngâm, mắt vời vợi mông lung trông ra bạt ngàn ngọn léc uốn cong theo gió, cơ má giật giật.
Từ độ hoa chanh vườn chú Thao nở, cô Sửu thỉnh thoảng sai: "Mày chạy vào nhà ông Thao kiếm ít hoa về gội đầu". Cô đâm nghiền thứ nước bồ kết nấu thả vài cánh chanh trắng, hương thoang thoảng, thanh và cay, gội xong nhiều ngày mà hương còn ủ trong tóc. Hoa chanh nở có kỳ, nhưng cô Sửu bao giờ cũng có thể gội đầu là nhờ chú Thao nhặt hoa rụng, hong khô, cất kỹ, mỗi bận lại cô Sửu một ít. Cô Sửu có lần đùa: "Vì mấy cây chanh nhà ông Thao mà tao lấy được chồng", cô hếch mặt: "Còn mày, đến thời không bù giá bằng hoa chanh được. Bảo bố mày sắm cho ít vòng xuyến...".
Cô Sửu vốn không đẹp, da đen, vóc người to ngang, ăn nói đốp chát. Học xong trung cấp nông nghiệp về xã làm kỹ thuật viên, cũng chân lấm tay bùn như ai, nhưng hễ trai làng buông lời tán tỉnh là cô bĩu môi ra chiều coi thường. Cô nói cô thích người trình độ. Ngoài ba mươi, cô còn ở vậy. Ấy thế nên cô nhận lời lấy anh kỹ sư cùng cơ quan bố.
Bà cũng hay sai. Bà thường sai mang những thức rau trong vườn cho chú Thao. Một lần sai đi bà lại đem chuyện chú Thao hồi chưa đi bộ đội ra kể, nào là chuyện chú Thao tát cá về bắt bà nấu canh rau tập tàng ra sao, nào là chuyện chú Thao cuốc đất khoẻ như thế nào. Thôi thì đủ chuyện, dài có khi hết buổi, làm mẹ phải nhắc khẽ: "Chạy ù đi rồi về học bài".
Chú Thao ít qua nhà nhưng hễ qua là thế nào chú cũng mang cho chục trứng, miếng thịt nhím thịt chồn bẫy được, ngồi với bà một chốc, nói dăm ba câu là đi ngay. Có lần cô Sửu bảo: "Hay anh lấy vợ đi. Ðã già đâu. Em sẽ mối cho anh con bạn học...". Không chờ cô Sửu nói hết, chú Thao trừng mắt làm cô ấn gãy thỏi son đang tô môi dở, xịu mặt. Chú Thao đi rồi cô mới toang toang; "Dở hơi, ông Thao ông ấy giở hơi. Thời này đàn bà rây ra, khối đứa thèm đàn ông không ai để mắt. Ông Thao có hơi bị cháy mặt một chút nhưng cũng là đàn ông. Có vợ có chồng vẫn cứ hơn thui thủi một mình. Biết toan tính, chăm chỉ như ông ấy, chả mấy chốc mà giàu. Hay còn chung thuỷ với bà Hồng? Bà ấy đã là vợ người ta, còn thương tiếc nỗi gì nữa không biết...". Bố gắt: "Biết thì nói, không thì đừng. Cô là hay nói nhiều". Cô Sửu đùng đùng: "Thấy phải là tôi nói chứ! Ông làm như ông thương ông Thao lắm không bằng. Thương sao để ông ấy ra ở rừng một mình?
Sao không chạy cho ông ấy cái giấy thương tật?
Mà ông chỉ bảo với xã một tiếng là người ta cho ông Thao thầu cái đồi léc, thế mà không. Ðể cho cỏ nó mọc bạt ngàn, người ta muốn làm kinh tế lại không cho". "Ðã bảo lắm bom...". "Bom cái gì? Ông không phải sợ cho cái tính mạng của ông Thao, ông sợ cái khác. Ðạo đức giả tuốt?". "Cô đừng có hồ đồ. Im đi cho tôi nhờ!". Bố bực bội. Cô Sửu không im, cô xỉa xói: "Ông đừng ỉ mà quát tôi nhé! Ông bắt ai im được chứ tôi thì đừng hòng. Tôi biết tỏng trăm ngàn chuyện xấu xa của ông. Tôi biết cả cái giấy đòi nhập ngũ là đề tên ông, nhưng vì ông sắp đi nước ngoài nên phải cạy cục lo cho ông Thao đi thay. Có ông Thao gánh hết thiệt thòi ông mới thành ông này ông nọ. ấy thế mà giá ông Thao chết đi có khi ông lại dễ chịu hơn là thấy ông ấy lù lù dẫn xác trở về". "Mày, mày, mày...". Bố lắp bắp, mặt đỏ ngầu. Cô Sửu ngoảy mặt bỏ đi. Bà rên rẩm: "Vô phước, tao vô phước...". Mẹ lặng im cắn môi ngồi một mình trong buồng. Bố nổ máy xe phóng ra huyện dù chưa hết ngày chủ nhật.
Cô Sửu lấy chồng chưa đầy năm thì tay xách nách mang về nhà. Mẹ kéo cô vào buồng, mặt tái nhợt: "Làm sao thế hả". Cô Sửu khóc, nói trong nước mắt: "Em dại. Ðã chót ở đến chừng ấy thế mà không ở luôn, lấy chồng là gì cho nó nhục...". Mẹ đảo mắt chung quanh hoảng sợ: "Thì nho nhỏ thôi! Có gì cô nói đi xem nào". Cô Sửu quệt nước mắt: "Cái số em nó khổ. Ngót ba chục tuổi đầu ai cũng cười ế ẩm, lấy chồng trình độ, ăn trắng mặc trơn thiên hạ tưởng sung sướng, nào ngờ vớ phải thằng cha bất lực. Biết em có bầu, nó đánh chửi em thậm tệ...". Trời ơi là trời" - Mẹ bưng mặt.
Tôi bỏ chồng. Ai nói gì thì nói". Cô Sửu tuyên bố khi có đủ mặt cả nhà. Bà chu chéo, bà bảo rằng chính cô làm nhục gia phong, rằng cô bôi tro trát trấu vào mặt bà. Bà khóc, bà chửi ầm cả nhà. Bố im lặng hút thuốc, mãi sau mới nói: "Chuyện xấu, chẳng biết giấu đi, cứ vạch áo cho người xem lưng. Cái làng này không khéo đến lúc cô Sửu đẻ, họ kéo cả đến xem đứa bé giống ai...". "Muốn xem tôi cho xem chứ! Tôi sợ gì mà giấu với giếm". "Hay hớm lắm đấy, cô lên phố mà xem, mấy hôm nay đầu đường xó chợ, đâu cũng thấy tụ tập đàm tiếu chuyện vợ chồng cô. Cô không ngượng nhưng mà tôi ngượng, tôi nhục...". Cô Sửu cúi nhìn cái bụng sắp vượt mặt, lại khóc. Nhà buồn như có đám.
Tháng Chạp thứ hai, hoa chanh vườn chú Thao nở. Cô Sửu không còn sai chạy sang chú Thao lấy hoa chanh nữa. Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc một màu, ngàn ngàn lớp sóng xô đuổi nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận óc. Lại mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắc lên làng mạc một làn sương mờ dày đặc. Bà bây giờ chỉ còn ngồi trong tay trên bếp lửa, hết sáng tới chiều, hết chiều tới tối, đêm bà ngủ mẹ cũng phải vùi than dưới giường cho bà. Lâu bà không còn nhắc đái vào cái máng sau vườn nữa. Khoảng đất của bà dền đất già nở từng bông hoa xanh xám dài ngoằng ngoẵng, chen chúc với lũ cỏ hôi hoa mầu hồng hồng, lá phủ một lớp lông mọc nham nhám. Cái liếp rào một lần gió lay là xiêu vẹo chực ngã. Phần cái cuốc chét, cán gãy mẹ đã cho vào bếp đun, lưỡi sắt hôm qua thằng cu Ki đã bán cho đồng nát.
Con cô Sửu xinh như tranh, chỉ mỗi hay đái dầm. Không thấy hàng xóm đến xem mặt đứa bé như lời bố, chỉ có ông Bính chủ tịch không con đến nhận thằng bé nhưng cô Sửu cười bảo: "Tôi đẻ, con tôi, chẳng con ai cả".
Cô đặt thằng bé vào cái nôi buông mùng trắng rồi hát: "Cái vạc mày ngủ cho ngon. Mai sau mày lớn, tìm cho ra gái ngoan mà hẹn hò...".
Cô bảo: "Mày trông chừng em cho cô nhé! Cô chạy quàng đi một tí. Lâu ngày nằm ổ, buồn quá! Cô vấn tóc trùm khăn kín mặt, đi. Quá bữa cô mới về. Từ ngoài ngõ đã nghe tiếng cô oang oang: "Ðiên, ông Thao nhà này điên mất rồi". Mẹ tất tả chạy từ dưới bếp lên. Cô Sửu vừa tháo khăn vừa nói: "Ðàn bà không chồng làng này thiếu gì. Lấy ai chẳng lấy, lại đi rước mẹ con con mụ Nền. Mang gông suốt đời mà không tránh khỏi miệng thế gian"....
À ra cô Nền về ở với chú Thao. Cô Nền nhà ở gần trường học, không thấy nói có chồng nhưng có ba đứa con. Bọn học trò hay vào nhà cô xin nước uống, lợi dụng bứt trái đu đủ non, dăm quả ổi xanh, trốn học chấm muối ớt, có đứa táo tợn còn lấy cắp trứng gà, bồng cả gà mẹ. Cô Nền biết nhưng không chửi, không mắng. Ðược thể bọn trẻ lại làm quá. Cô là đối tượng trong những câu chuyện của đám đàn ông tụ tập khi rỗi rãi. Họ đùa phát vào lưng nhau đôm đốp: "Em Nền ấy à, cứ xuống xề kể lể nỗi bất hạnh là em mềm lòng cho tuốt...". Ðàn bà khinh nhờn cô ra mặt. Họ bảo cô đĩ thoã, họ bảo cô khốn nạn. Quanh năm suốt tháng, ngoài lũ học trò chẳng có ai tới nhà cô ban ngày ban mặt.
Cô Sửu lay gối bà, than thở, chuyện chú Thao. Bà ngồi lặng im hong tay trên bếp, chẳng ra nghe, chẳng ra không. Mắt bà đục mờ như có phủ sương khói. Bà cười, phô hàm lưỡi trống trơn sóm sém. Lâu bà mới hỏi mẹ: "Thế bao giờ đến giỗ thằng Sơn?". Mẹ dụi mắt, nhắc khẽ "Chú ấy còn sống, đã về". À thế...". Mắt bà ánh lên một chút sáng rất nhỏ, rất mỏng, rồi nguội tắt nhanh chóng, lại chỉ thấy sương khói đục mờ. Mẹ và cô Sửu nhìn nhau, không ai nói.
Trong hơi may, trên những triền đồi hoang chỉ còn một lũ trẻ chăn trâu. Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám, giữa lồng lộng gió. Trên muôn triệu lá léc xanh xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo, là réo rắt, là huyền hoặc tiếng sáo. Chưa bao giờ tiếng sáo nỗi niềm da diết đến thế. Không đứa nào lên tiếng. Chúng nắm chặt tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia đồi. Phía đó, một làn khói bếp mỏng bay lên, vẽ một đường cong mềm mại, rồi toả toả vào trong chiều muộn.
Theo (tuoitre)