
Cách đây hơn 60 năm, trong một đêm lạnh giá, sương muối giăng trắng núi đồi Trung Bắc bộ, một anh lính trẻ vùng dậy khỏi lán trại, xin bát dầu lạc, thả cọng bấc khêu ngọn lửa leo lét, rồi cắm cúi trên tấm giấy viết: "Bảy năm về trước em mười bảy...".
Cách đây hơn 60 năm, trong một đêm lạnh giá, sương muối giăng trắng núi đồi Trung Bắc bộ, một anh lính trẻ vùng dậy khỏi lán trại, xin bát dầu lạc, thả cọng bấc khêu ngọn lửa leo lét, rồi cắm cúi trên tấm giấy viết: “Bảy năm về trước em mười bảy...”. Cho đến dòng chữ cuối cùng “...Mãi cánh hoa thơm” cũng là lúc ngọn bấc hắt ánh lửa cuối cùng. Đó là khoảnh khắc người lính Vũ Cao sáng tác bài thơ “Núi đôi” nổi tiếng sau này.
![]() |
Còn nhớ, hôm gặp nhà thơ Vũ Cao ở nhà riêng, tóc ông đã bạc trắng như sương, nhưng từ giọng nói tới tiếng cười vẫn đầy hào sảng. Nghe tôi gọi ông là nhà thơ, ông nheo mắt cười hóm hỉnh: “Tớ đã nói rồi, xưa nay tớ chỉ là anh nhà báo làm thơ chứ chẳng phải nhà thơ gì?”. Ông kể, cho đến gần 80 tuổi đời và 50 năm sáng tác, ông chỉ có 3 tập thơ với 39 bài thơ, trong đó có thi phẩm “Núi đôi”, tính ra 2 năm mới sáng tác được 1 bài! Ấy thế mà có giai đoạn ông lại giữ chức Chủ tịch Hội đồng Thơ của Hội Nhà văn Việt Nam suốt thập niên 90. Lý giải điều lạ này, Vũ Cao cười: “Anh em thấy mình vui vẻ, tính không câu nệ thì đề nghị mình làm giúp ấy mà!”.
Vũ Cao tên thật là Vũ Hữu Chỉnh (1922 - 2007), sinh bên bờ sông Lô bạt ngàn chè xanh, 5 tuổi về sống ở quê nội Nam Định, được ít lâu lại theo gia đình đến Thái Bình, Thái Nguyên, Hải Dương... Khi trở lại Hà thành, ông được học ở trường tư thục Thăng Long danh tiếng. Do gia cảnh eo hẹp nên ông hay tới nhà mấy người bạn quen ở phố Hàng Bông ngồi đọc sách đến mê mệt để thay cho những thú vui khác, và tất cả đều bằng tiếng Pháp. Đây là đoạn khởi đầu tích lũy kiến thức văn học của ông. Sau này sang Liên Xô, đến thăm trang trại, đứng trước nấm mộ giản dị của văn hào Lev Tostol, Vũ Cao xúc động như gặp lại cố nhân. Ông làm cho người hướng dẫn viên ngạc nhiên về sự thông tuệ am hiểu các tác phẩm lẫy lừng của Lev. Cầm trên tay quyển “Anna Karenina” trong bảo tàng, ông nói: “Quyển sách này tôi đã đọc lúc 17 tuổi bằng văn bản tiếng Pháp. Tôi bước vào lâu đài văn học Nga bằng tiếng Pháp!”. Nhưng tác phẩm gây sửng sốt nhất đối với ông là “Tội ác và trừng phạt” của thiên tài Dostoievski và chính nhà văn Nguyên Hồng đã giới thiệu quyển sách này với ông.
![]() |
| Ảnh minh họa. |
Có điều hết sức kỳ lạ là trước khi tham gia cách mạng, ông lại không biết gì về văn học Việt Nam đương thời như các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Bằng, Thế Lữ, Xuân Diệu... mà chỉ biết các tác phẩm thế giới với ngôn ngữ Pháp! Vũ Cao kể: “Mãi sau này khi làm báo, hoạt động nghệ thuật, tôi mới quay lại văn học Việt Nam!”. Tuy nhiên, ông vẫn nhớ như in các bài ru của mẹ, của bà và đặc biệt là thuộc lòng truyện Kiều. Vì thế mới có một tâm hồn thơ sau này.
Vũ Cao có tiếng là đi nhiều nhưng địa bàn hoạt động chính là miền trung du Quân khu 3, nơi đây có biết bao kỷ niệm đối với ông, đặc biệt là cái bút danh của mình. Ông kể, do mình cao hơn thước bảy, mặt mũi sáng láng nên đi đâu cũng được các cô dân công gọi trêu: “Cái anh cao cao kia ơi!”. Về nhà, ông cứ tủm tỉm nhớ những tiếng gọi giòn tan ấy, rồi một lần viết xong bài báo, ông chợt nảy ra bút danh của mình là Vũ Cao.
Trở lại bài thơ “Núi đôi”, nhiều người tưởng nhân vật nữ du kích bị địch giết trong bài thơ là người yêu của tác giả. Nhưng kỳ thực không phải. Vũ Cao hoàn toàn không quen biết cô du kích Trần Thị Bắc ở làng Phù Linh, Sóc Sơn (nay là Hà Nội). Do hoạt động trong vùng tề ác liệt, Vũ Cao nghe được huyền thoại về cô gái xinh đẹp nhất làng Phù Linh, ấn tượng đó cứ lay động trong trái tim người lính trẻ đa cảm, cho đến một đêm mùa đông nơi quân trại, Vũ Cao đã tuôn trào cảm xúc sáng tác bài thơ “Núi đôi”. Khác hẳn với nhiều nhà thơ khi sáng tác xong thì khoe bạn bè hay thể hiện cảm xúc ra bên ngoài, Vũ Cao âm thầm cất đi như muốn riêng cho tâm hồn mình được thổn thức. Mãi tới năm 1957, bài thơ mới đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Không ngờ sức lan tỏa của bài thơ thật nhanh và mãnh liệt đến thế, nhiều người chép, đọc và thuộc lòng bài thơ tình bi tráng này! Hai ngọn núi miền Sóc Sơn xa xôi trở thành huyền thoại nhờ bài thơ, ngôi mộ của liệt sĩ Trần Thị Bắc cũng trở lên linh thiêng hơn!
Còn một chi tiết nữa cũng rất lạ, nhà thơ phải mất tới 40 năm mới quay lại hai ngọn núi kỳ diệu của mình. Vũ Cao kể lại rằng, khi viết bài thơ “Núi đôi”, tóc ông vẫn còn xanh, khi trở lại thì đã hóa trắng. Dân làng Phù Linh biết tác giả bài thơ nên đã ra đón và cùng nhau đọc cho tác giả nghe. Bài thơ đã trở thành tâm hồn, thành gia bảo tinh thần của làng suốt bao thế hệ nay. Ngồi bên sườn núi, dường như nhà thơ già lần đầu tiên mới hiểu được thế nào là hạnh phúc. Ông nheo mắt ngắm nhìn hàng thông non hai sườn núi. Hình như có bóng một đôi bạn trẻ đang tung tăng trong sương...
Dương Trang Hương






