
Từ nỗi đau riêng, nữ sĩ Tương Phố (1896 - 1973) đã viết nên một "Giọt lệ thu" bất hủ. Ẩn sau những dòng tâm sự chứa chan ấy là tiếng lòng khát khao hạnh phúc, tình yêu son sắt, thủy chung... của người phụ nữ Việt.
Từ nỗi đau riêng, nữ sĩ Tương Phố (1896 - 1973) đã viết nên một “Giọt lệ thu” bất hủ. Ẩn sau những dòng tâm sự chứa chan ấy là tiếng lòng khát khao hạnh phúc, tình yêu son sắt, thủy chung... của người phụ nữ Việt.
. Nỗi lòng nữ sĩ gửi vào thơ
Nữ sĩ Tương Phố (tên thật là Đỗ Thị Đàm) sinh ra ở Bắc Giang, nguyên quán ở huyện Khoái Châu, Hưng Yên. Năm 1915, khi đang là sinh viên Trường Sư phạm Hà Nội, bà kết hôn với ông Thái Văn Du - sinh viên trường y. Hạnh phúc vừa chớm nở, khi hai người vừa có con đầu lòng thì ông Du bị đưa qua Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh Pháp - Đức (1914 - 1918), sau đó ông bị bệnh, được đưa về Huế và mất tại đó. Đường sá xa xôi cách trở, khi người vợ trẻ vào đến nơi để chịu tang chồng thì đã đến kỳ lễ cúng thất tuần, không được nhìn mặt chồng lần cuối. Trong nỗi buồn đơn lẻ, nhớ thương chồng, người góa phụ trẻ đã viết những câu thơ ai oán, não nùng: Trời thu ảm đạm một màu/Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em/Trăng thu ngả bóng bên thềm/Tình thu ai để duyên em bẽ bàng, mở đầu cho thiên tình sử Giọt lệ thu nức tiếng về sau.
![]() |
| Nữ sĩ Tương Phố. |
Năm 1925, vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó, vâng lời cha, nữ sĩ Tương Phố đã đi bước nữa với ông Phan Đắc Khánh - Tuần phủ Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc lúc bấy giờ. Đó là bi kịch đối với một người nặng lòng thủy chung muốn trọn đạo thờ chồng, nuôi con như bà. Trong khi nhiều người mừng bà đã tìm được nơi yên ấm thì nữ sĩ luôn thấy thẹn với lòng mình: Trăm năm danh tiết lỡ rồi/Dẫu thân chung đỉnh cũng đời bỏ đi. Bởi vậy, dù sống bên người mới, bà vẫn không nguôi nhớ về chồng cũ. Không hiểu vô tình hay cố ý, bà cũng không có con với ông quan Tuần phủ. Suốt mấy tập thơ của nữ sĩ Tương Phố chỉ có hình bóng người chồng đầu tiên, bà chỉ dành duy nhất một bài để cảm tạ ông Tuần phủ vì đã nuôi con mình ăn học nên người.
Giọt lệ thu được hoàn thành từ mùa thu năm 1923, nhưng mãi 5 năm sau, nữ sĩ Tương Phố mới gửi đăng trên tạp chí Nam Phong. Câu chuyện tình duyên ngắn ngủi đầy nước mắt được viết bằng văn xuôi, xen lẫn những đoạn thơ lục bát và song thất lục bát đã làm xao động tâm hồn bao người. Tác phẩm này không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa tận nước ngoài. Từ những năm 30, nữ thi sĩ Pháp Jeanne Duclos-Salesses đã dịch Giọt lệ thu sang tiếng Pháp đăng trên báo Le Moniteur d’Indochina. Nhà danh cầm người Pháp De Gironcourt đọc được bài thơ này đã viết bản nhạc Khúc ca trên mộ. Năm 1940, khi sang Việt Nam, ông đã tìm đến Phúc Yên (Vĩnh Phúc) để thăm bà Tương Phố và tặng bà bản nhạc này.
Sau Giọt lệ thu, nữ sĩ Tương Phố viết tiếp Tái tiếu sầu ngâm, Khúc thu hận, Mưa gió sông Tương. Dường như, cả sự nghiệp của bà chỉ xoay quanh nỗi niềm thương nhớ người chồng xấu số, cũng là để khóc thương chính thân phận mình. Đặc biệt, tuy chỉ viết về nỗi lòng riêng nhưng thơ Tương Phố cũng có nhiều thành công, nhất là những bài lục bát và song thất lục bát. Khi viết tập sách Nét bút giai nhân, nhà thơ Quách Tấn đã xếp nữ sĩ Tương Phố ngồi chung chiếu thơ với Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Ngọc Hân Công chúa. Ông cho rằng trong Giọt lệ thu và Mưa gió sông Tương có nhiều câu tuyệt tác có thể đặt cạnh Chinh phụ ngâm, Ai tư vãn mà không thấy thẹn. Nhận xét ấy có phần hơi ưu ái, nhưng quả thật thơ của nữ sĩ Tương Phố có nhiều bài, đoạn đã đạt đến trình độ điêu luyện mà đoạn thơ sau là minh chứng: Thuyền ai não khách ôm cầm/Dây tơ dìu dặt âm thầm tiếng tơ/Khúc thành lệ ứa như mưa/Cảm xoang điệu cũ bao giờ cho thôi/Thân này đôi dẫu đủ đôi/Lòng này riêng vẫn lẻ loi tấm lòng/Theo duyên ân ái đèo bồng/Trăm năm vẫn một khúc lòng bi thương (Tái tiếu sầu ngâm).
. Nhớ thương ở lại với đời
![]() |
Ngày nay, nhiều bạn yêu văn chương đến Đà Lạt vẫn thường ghé thăm mộ nữ sĩ Tương Phố, cứ nghĩ bà gắn bó với thành phố mộng mơ này rất lâu, nhưng kỳ thực bà sống ở Nha Trang lâu hơn nhiều so với mảnh đất cao nguyên. Theo ông Quách Giao (con trai nhà thơ Quách Tấn), sau năm 1945, nữ sĩ Tương Phố vào định cư ở Nha Trang. Bà sống một mình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Trịnh Phong, lấy thơ văn làm bầu bạn. “Nữ sĩ Tương Phố là người phụ nữ rất đoan trang, bà nấu ăn rất ngon. Bà xem cha tôi như người em, khi có thời gian 2 người cũng ghé thăm nhau, đàm đạo thơ văn”, ông Quách Giao nhớ lại. Chính trong khoảng thời gian sống ở Nha Trang, nữ sĩ Tương Phố đã tập hợp những bài thơ đã sáng tác từ năm 1916 đến 1949 để in tập Mưa gió sông Tương - tập thơ như cuốn nhật ký ghi lại nỗi lòng của nữ sĩ. Thơ của Tương Phố chủ yếu viết về tâm trạng cá nhân, nên dấu ấn của mỗi vùng đất mà bà từng sống không để lại nhiều trong thơ, nhưng chắc chắn phải yêu Nha Trang lắm nên bà mới gắn bó với thành phố biển lâu đến vậy. Mãi đến năm 1969, khi tuổi đã cao, nữ sĩ Tương Phố mới rời Nha Trang lên sống ở Đà Lạt và mất tại đây vào năm 1973. Mộ bà trên một đồi thông bên đường Mimosa, thuộc dãy Langbiang. Từ khi bà nằm xuống, người đời yêu mến bà đã gọi ngọn đồi ấy là Tương Sơn như muốn nhắc nhở với đời sau rằng người nằm ở đó là Tương Phố - nữ thi sĩ nức tiếng một thời của văn chương đất Việt!
Nhiều người cho rằng văn chương của bà quá sầu não, ảm đạm... khiến người đọc bi lụy tâm hồn. Cách nhìn ấy có vẻ hơi khắt khe, bởi người đọc đương thời đã thấu hiểu, chia sẻ với những nỗi đau của bà. Trong bối cảnh đầu thế kỷ XX, việc nữ sĩ Tương Phố đem tiếng lòng cá nhân, nỗi đau riêng lên mặt báo để chia sẻ với người đọc là một hành động vượt lên ảnh hưởng xã hội. Cùng với những giọt lệ gửi vào thiên thu ấy, một mặt nào đó, thơ của nữ sĩ Tương Phố cũng góp phần vào cuộc đấu tranh nữ quyền, đó là tiếng nói đòi được hạnh phúc, ca ngợi tình yêu son sắt, thủy chung...
THÀNH NGUYỄN






