Hiện nay, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức phân lô bán nền được thực hiện theo quy định Điều 41 Nghị định số 43/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Khoản 7 Điều 4 Nghị định số 11/2013 về quản lý đầu tư phát triển đô thị ....
Hiện nay, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) theo hình thức phân lô bán nền được thực hiện theo quy định Điều 41 Nghị định số 43/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Khoản 7 Điều 4 Nghị định số 11/2013 về quản lý đầu tư phát triển đô thị và Thông tư liên tịch số 20/2013/TTLT-BXD-BNV của Bộ Xây dựng, Bộ Nội vụ hướng dẫn một số nội dung của Nghị định số 11/2013. Việc xem xét, quyết định các khu vực được thực hiện chuyển QSDĐ đã được đầu tư hạ tầng cho người dân tự xây dựng nhà ở phải đảm bảo các nguyên tắc quy định tại khoản 3 Điều 11 Thông tư liên tịch số 20; khu đất được chuyển QSDĐ phải được đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu và kết nối với hệ thống hạ tầng chung của khu vực trước khi thực hiện việc chuyển QSDĐ cho người dân tự xây dựng nhà ở, đảm bảo cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho người dân đến ở.
Theo đó, chủ đầu tư các dự án bất động sản chỉ được chuyển QSDĐ đã được đầu tư xây dựng hạ tầng cho người dân tự xây dựng nhà ở theo quy hoạch chi tiết của dự án theo quy định tại Khoản 7 Điều 4 Nghị định số 11, Điều 41 Nghị định số 43 (Chủ đầu tư dự án phải hoàn thành việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng gồm các công trình dịch vụ, công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 đã được phê duyệt; đảm bảo kết nối với hệ thống hạ tầng chung của khu vực trước khi thực hiện việc chuyển nhượng QSDĐ cho người dân tự xây dựng nhà ở; đảm bảo cung cấp các dịch vụ thiết yếu (gồm cấp điện, cấp nước, thoát nước, thu gom rác thải...). UBND cấp tỉnh quy định cụ thể những khu vực được thực hiện chuyển QSDĐ đã được đầu tư hạ tầng cho người dân tự xây dựng nhà ở theo quy hoạch chi tiết của dự án đã được phê duyệt, sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Bộ Xây dựng.
Kể từ ngày 5-1-2020, trường hợp chuyển nhượng QSDĐ dưới hình thức phân lô, bán nền trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê không đủ một trong các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 41 của Nghị định số 43 hoặc đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 41 của Nghị định số 43 nhưng chưa được UBND cấp tỉnh cho phép theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 194 của Luật Đất đai thì hình thức và mức xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 50 triệu đồng đối với diện tích đất đã chuyển nhượng dưới 0,5ha;
b) Phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng đối với diện tích đất đã chuyển nhượng từ 0,5ha đến dưới 1ha;
c) Phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 200 triệu đồng đối với diện tích đất đã chuyển nhượng từ 1ha đến dưới 3ha;
d) Phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng đối với diện tích đất đã chuyển nhượng từ 3ha trở lên.
Trường hợp chuyển nhượng QSDĐ dưới hình thức phân lô, bán nền trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê không đủ từ hai điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 41 của Nghị định số 43 trở lên thì hình thức và mức xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng đối với diện tích đất đã chuyển nhượng dưới 0,5ha;
b) Phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 200 triệu đồng đối với diện tích đất đã chuyển nhượng từ 0,5ha đến dưới 1ha;
c) Phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng đối với diện tích đất đã chuyển nhượng từ 1ha đến dưới 3ha;
d) Phạt tiền từ 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng đối với diện tích đất đã chuyển nhượng từ 3ha trở lên.
Trường hợp chuyển nhượng QSDĐ dưới hình thức phân lô, bán nền mà không lập dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê thì xử phạt theo quy định tại Nghị định số 139/2017 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng, khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển nhà ở, quản lý sử dụng nhà và công sở.
Luật sư Nguyễn Hồng Hà