So với Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, BLTTDS năm 2015 (có hiệu lực thi hành ngày 1-7-2016) đã bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời "Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ". Đây là một quy định mới, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn.
So với Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, BLTTDS năm 2015 (có hiệu lực thi hành ngày 1-7-2016) đã bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời “Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ”. Đây là một quy định mới, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn.
Trước đây, khi giải quyết yêu cầu của đương sự về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với một bên đương sự để đảm bảo việc giải quyết vụ án và thi hành án, tòa án có thể ban hành quyết định cấm xuất cảnh đối với đương sự. Đây là hình thức áp dụng Điều 115 BLTTDS năm 2004 “Cấm đương sự thực hiện một số hành vi nhất định”. Rõ ràng quy định này là chưa cụ thể, dẫn đến khó khăn cho tòa án trong việc cấm đương sự xuất cảnh khi giải quyết các vụ án dân sự. Do đó, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ vào biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Theo BLTTDS năm 2015, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay và được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Theo mẫu quyết định hiện hành, nội dung quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không có quy định về việc giải thích quyền khiếu nại, thời hạn khiếu nại đối với quyết định này. Nhưng BLTTDS năm 2015 đã quy định đương sự có quyền khiếu nại, Viện Kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo đó, thời hạn khiếu nại, kiến nghị là 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Chánh án Tòa án phải xem xét, giải quyết khiếu nại trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án là quyết định cuối cùng. Tại phiên tòa, việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết định cuối cùng.
Xin nêu một vài vụ đương sự bị cấm xuất cảnh trong quá trình giải quyết án dân sự mà quyền và lợi ích của họ được giải quyết rất khác nhau. Vụ thứ nhất: Tháng 6-2010, Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý vụ tranh chấp quyền sở hữu tài sản là nhà đất tại TP. Nha Trang giữa nguyên đơn là bà N. (quốc tịch Mỹ, tạm trú TP. Nha Trang, là vợ cũ của ông H.) và bị đơn là bà X. (con riêng của ông H.). Ông H. được xác định là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện.
Tháng 8-2010, Tòa án nhân dân tỉnh ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cấm xuất cảnh đối với ông H. Quyết định nói rõ thời hạn cấm từ ngày ban hành quyết định đến khi có quyết định khác của tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự. Sau một thời gian khá dài, ông H. mới có đơn khiếu nại nên tháng 3-2016, tòa án đã từ chối thụ lý khiếu nại do hết thời hạn, thời hiệu giải quyết khiếu nại. Quyết định cấm ông H. xuất cảnh từ năm 2010 đến nay vẫn còn hiệu lực, nên ông H. không thể xuất cảnh…
Vụ thứ hai: Tháng 7-2015, bà V. khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản với vợ chồng bà T. và bà Ng. tại Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm. Trong quá trình giải quyết, tòa án nhiều lần triệu tập nhưng bà Ng. không có mặt. Tháng 10-2015, biết bà Ng. có ý định xuất cảnh, bà V. yêu cầu Tòa án nhân dân áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cấm xuất cảnh đối với bà Ng. Tháng 10-2015, tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với bà Ng., cấm bà Ng. xuất cảnh trong thời hạn 4 tháng. Sau đó, bà Ng. khiếu nại quyết định này. Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm nhận thấy chưa có căn cứ xác định bà Ng. phải thực hiện nghĩa vụ dân sự nên đã ra quyết định hủy bỏ quyết định cấm xuất cảnh đối với bà Ng.
Như vậy, đối với vụ thứ nhất, do đương sự không khiếu nại trong thời hạn luật định nên tòa án đã từ chối thụ lý giải quyết. Từ đó đương sự bị cấm xuất cảnh trong một thời gian dài cho đến nay chưa được giải tỏa.
Đối với vụ thứ hai, đương sự bị cấm xuất cảnh đã có đơn khiếu nại trong thời hạn nên đã được tòa án chấp nhận hủy bỏ quyết định cấm xuất cảnh kịp thời.
Thời hạn khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ trong 3 ngày, rất ngắn so với thời hạn kháng cáo bản án, thời hạn khiếu nại các quyết định tố tụng dân sự khác. Do đó, các đương sự trong vụ việc dân sự khi bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm xuất cảnh không đúng cần chú ý về thời hạn khiếu nại. Có thực hiện đúng luật thì quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mới được tòa án bảo vệ.
Đại Hưng



