
Thừa phát lại đã được pháp luật quy định nhưng không phải ai cũng biết về chế định này. Thời gian qua, hoạt động Thừa phát lại mới chỉ được thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh. Sắp đến, khi chế định này được triển khai rộng rãi, quy định sẽ giúp ích rất nhiều cho người dân, nhất là những người đang "đáo tụng đình"...
Thừa phát lại đã được pháp luật quy định nhưng không phải ai cũng biết về chế định này. Thời gian qua, hoạt động Thừa phát lại mới chỉ được thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh. Sắp đến, khi chế định này được triển khai rộng rãi, quy định sẽ giúp ích rất nhiều cho người dân, nhất là những người đang “đáo tụng đình”...
Theo quy định hiện nay, Thừa phát lại là một chức danh bổ trợ tư pháp, giống như tên gọi của một số nghề luật như: nghề Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Công chứng viên… Danh từ Thừa phát lại thực ra không xa lạ gì với chế độ cũ ở miền Nam trước năm 1975. Sau một thời gian dài vắng bóng, thuật ngữ này xuất hiện trở lại với nhiều nội dung mới.
Theo Nghị định số 61/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, Thừa phát lại là doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh có chức năng: thi hành án; xác minh điều kiện thi hành án; lập vi bằng và tống đạt văn bản, giấy tờ của tòa án và cơ quan thi hành án.
Trong đó, công việc thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án được quy định cho Thừa phát lại giống như cơ quan thi hành án dân sự tư nhân. Điều này có nghĩa, hiện nay, nếu bạn được tòa xử thắng kiện 50 triệu đồng, nhưng bên thua kiện không chịu trả thì theo quy định bạn chỉ có thể yêu cầu cơ quan thi hành án của Nhà nước thực hiện bản án. Nhưng theo Nghị định số 61, nếu bạn không thích yêu cầu cơ quan Nhà nước, bạn có thể nhờ Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án theo yêu cầu của bạn. Dĩ nhiên, cơ quan này phải tuân theo quy định pháp luật nhưng thời gian thi hành sẽ giảm đi đáng kể.
Tiếp đến là vấn đề xác minh điều kiện thi hành án. Theo quy định, người dân phải thực hiện điều này nhưng không phải ai cũng đủ trình độ pháp lý để thực hiện bởi các cơ quan nắm giữ thông tin (văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, điểm đăng ký xe của phòng cảnh sát giao thông, ngân hàng…) không hẳn đã quen với khái niệm cung cấp thông tin mà họ đang quản lý cho “dân thường”. Vì thế, việc nhờ đến một tổ chức chuyên nghiệp lo việc ấy hẳn sẽ đơn giản và hiệu quả hơn rất nhiều. Lý do là pháp luật quy định các cơ quan có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm hỗ trợ Thừa phát lại trong việc xác minh điều kiện thi hành án.
Chức năng lập vi bằng được hiểu là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý về sau. Ví dụ, nếu bạn mua bán một vật gì đó mà sợ đối tác lật lọng, bạn cứ nhờ Thừa phát lại lập vi bằng mà không cần phải công chứng hay chứng thực. Nếu sau này “có sự cố” thì vi bằng này sẽ có giá trị pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem xét tranh chấp. Trên thực tế, vi bằng có rất nhiều hình thức, chẳng hạn như vi bằng về: đặt cọc; ghi nhận hiện trạng; giao nhận tiền, tài sản trong các giao dịch; thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng; ghi nhận các bên ký tên vào văn bản cam kết, thỏa thuận, tờ xác nhận, trình bày lời khai; ghi nhận cuộc họp, ký kết vào biên bản cuộc họp; ghi nhận hành vi giao thông báo đòi nhà, phá khóa, kiểm kê tài sản; ghi nhận hành vi trái pháp luật trên Internet, hành vi vu khống, làm việc, phát ngôn không đúng theo yêu cầu, không được sự đồng ý của người khác trên website, báo đài; ghi nhận sự chậm trễ trong thi công công trình xây dựng, chậm bàn giao mặt bằng; ghi nhận việc từ chối công việc của cá nhân, tổ chức mà theo quy định của pháp luật cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện… Như thế, bằng cách này hay cách khác, quy định này tạo điều kiện cho các giao dịch được minh bạch và khó “đổi trắng thay đen” trước pháp luật.
Và cuối cùng, Thừa phát lại có chức năng tống đạt các văn bản của tòa án và cơ quan thi hành án dân sự. Điều này có nghĩa là thông báo, giao nhận các văn bản của tòa án và cơ quan thi hành án dân sự theo quy định pháp luật cho đương sự. Đây là cách để đương sự không thể nói “tôi không biết”, “tôi chưa nhận được văn bản”… hoặc viện dẫn các quy định trong luật tố tụng để trốn tránh nghĩa vụ của mình.
Lê Minh


