Từ ngày 1-1-2015, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có hiệu lực pháp luật. Đây là Luật quan trọng và có rất nhiều điểm mới…
Từ ngày 1-1-2015, Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2014 có hiệu lực pháp luật. Đây là Luật quan trọng và có rất nhiều điểm mới…
Năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật BVMT. Tuy nhiên, Luật BVMT năm 2005 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, làm giảm hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về BVMT. Vì thế, việc ban hành Luật BVMT năm 2014 là rất cần thiết.
Luật BVMT năm 2014 có những điểm mới rất quan trọng. Thứ nhất, ở phạm vi áp dụng có bổ sung thêm các cơ quan, việc này sẽ làm rõ vai trò trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong việc thực thi pháp luật về BVMT. Thứ hai, Luật đã đưa khá nhiều những khái niệm mới như: Quy hoạch BVMT, khí nhà kính, ứng phó biến đổi khí hậu, an ninh môi trường... cũng như chỉnh sửa các khái niệm về môi trường, ô nhiễm môi trường, sức chịu tải của môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, phế liệu... để làm cơ sở cho những quy định mang tính điều chỉnh, định hướng của Luật. Điểm mới quan trọng tiếp theo là việc đưa thêm 2 nguyên tắc mới trong việc BVMT: Đó là BVMT phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành; BVMT phải dựa trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm thiểu chất thải.
Để công tác BVMT được thực hiện tốt, Nhà nước sẽ bổ sung ngân sách với tỷ lệ tăng dần theo tăng trưởng chung và sẽ có chính sách khen thưởng đối với cá nhân, tổ chức, hộ gia đình có đóng góp tích cực trong BVMT. Đồng chí Lê Xuân Thân, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch Hội đồng Phổ biến pháp luật tỉnh cho biết, Luật BVMT năm 2014 đã có bước tiến bộ lớn khi quy định rất rõ những hành vi bị nghiêm cấm. Ở nhiều Luật, khi quy định điều cấm, các nhà làm luật thường quy định chung điều khoản “các điều cấm khác theo quy định pháp luật” nhằm tránh bỏ sót những trường hợp mà Luật chưa dự liệu được. Luật BVMT năm 2014 quy định rất rõ 17 điều cấm nhằm hạn chế sự lạm dụng các quy định cấm trong công tác quản lý BVMT. Ngoài ra, Luật BVMT năm 2014 quy định về thời hiệu hoàn toàn khác với Luật BVMT năm 2005. Trước đây, thời hiệu được quy định là 2 năm kể từ khi có hành vi vi phạm nhưng với Luật mới, thời hiệu đó là không hạn chế. Chẳng hạn, trước đây một nhà máy nào đó có hành vi gây ô nhiễm môi trường của khu dân cư, tuy nhiên, hậu quả ô nhiễm chỉ phát sinh sau một thời gian dài. Theo quy định thì người dân chỉ được khởi kiện trong thời hạn 2 năm nhưng khi đã quá lâu như vậy thì không còn được xem xét. Vì thế với việc quy định thời hiệu là vô hạn cũng là cách để xử lý những hành vi vi phạm về môi trường một cách triệt để.
Luật BVMT năm 2014 còn có nhiều điểm mới. Đó là vấn đề quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược và kế hoạch BVMT. Theo đó, chỉ chia 2 cấp thực hiện là Trung ương và cấp tỉnh. Nhiều lĩnh vực hoàn toàn mới đều được Luật dành riêng một chương. Đó là các lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu; BVMT biển, hải đảo; BVMT đất, nước, không khí; BVMT trong hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ; BVMT trong khu dân cư; quản lý chất thải, xử lý ô nhiễm; quy chuẩn kỹ thuật môi trường, quan trắc môi trường; thông tin môi trường. Ngoài ra, Luật cũng dành hẳn 2 chương để quy định tách bạch trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, cộng đồng dân cư về BVMT.
Ông Lê Xuân Thân nhận định, Luật BVMT năm 2014 đã thể hiện quan điểm chiến lược của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực BVMT. Thời gian qua, Việt Nam đã tham gia các Công ước quốc tế về BVMT, chống biến đổi khí hậu, băng tan... cho nên với việc ban hành Luật BVMT năm 2014, Đảng và Nhà nước đã thể hiện cách nhìn nhận nghiêm túc về vấn đề môi trường cũng như thể hiện trách nhiệm trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về BVMT.
LÊ MINH


