09:07, 17/07/2014

Luật Đất đai 2013: Tháo gỡ khó khăn cho người dân

Từ ngày 1-7, khi Nghị định 43/2013 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013 có hiệu lực, người dân sẽ thụ hưởng nhiều quy định có lợi, giảm bớt phiền hà khi xin cấp giấy chứng nhận nhà, đất…

Từ ngày 1-7, khi Nghị định 43/2013 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013 có hiệu lực, người dân sẽ thụ hưởng nhiều quy định có lợi, giảm bớt phiền hà khi xin cấp giấy chứng nhận nhà, đất…


Năm 2006, ông Nguyễn Văn Thành, thường trú tổ 3, Vĩnh Phước, Nha Trang có mua lại một căn nhà tạm ở xã Vĩnh Ngọc. Khi tiến hành mua bán chỉ làm giấy tay, ông Thành chồng tiền để lấy sổ đỏ và sử dụng đất (SDĐ) ổn định đến nay. Sau một thời gian, khi muốn thế chấp nhà, đất cho ngân hàng, ông Thành tiến hành làm thủ tục chuyển tên sổ sở hữu thì mới biết người bán đất cho mình đã chuyển đi đâu không rõ. Chính vì thế, ông không thể làm hồ sơ chuyển tên trên sổ được. Ông Thành cho biết: “Khi liên hệ với xã, phòng một cửa hay Văn phòng đăng ký quyền SDĐ của thành phố, nơi nào cũng yêu cầu tôi phải có hợp đồng sang nhượng thì mới có thể làm thủ tục chuyển tên trên sổ. Ngoài ra, không còn cách nào khác vì quy định pháp luật không cho phép. Nhưng làm sao có hợp đồng đó được vì người bán đất cho tôi giờ đi đâu không rõ?”.


Hoặc như trường hợp của bà Phan Thị Bình, trú Vĩnh Trường, Nha Trang: năm 2002, khi cha mẹ mất, anh em bà tự thỏa thuận phân chia đất. Theo đó, bà được chia một phần đất để làm nhà ở. Tuy nhiên sau khi làm nhà ở đến giờ, bà không thể làm được sổ đỏ. Nguyên nhân khi bố mẹ bà mất, phần nhà đất đó chưa được cấp GCN, vì thế, việc làm GCN đối với phần đất được chia không thể thực hiện.


Đây là hai trong rất nhiều trường hợp không được cấp GCN quyền SDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi tắt là GCN) vì Luật Đất đai chưa quy định cụ thể. Tuy nhiên, theo Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định 43 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, các vướng mắc trong những trường hợp trên sẽ được tháo gỡ. Theo khoản 1, Điều 82 của Nghị định 43, trường hợp người đang SDĐ nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền SDĐ trước ngày 1-1-2008 mà đất đó chưa được cấp GCN, thì người nhận chuyển quyền SDĐ thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp GCN quyền SDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật Đất đai và quy định tại Nghị định này mà không phải làm thủ tục chuyển quyền SDĐ; cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được bắt buộc người nhận chuyển quyền SDĐ nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền SDĐ theo quy định của pháp luật. Như vậy, đối với trường hợp bà Bình, việc đăng ký sẽ được tiến hành như thủ tục xin cấp sổ lần đầu.


Đối với trường hợp như ông Thành, việc xin cấp sổ cũng không còn khó khăn nữa. Theo Nghị định 43, người đang SDĐ do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền SDĐ trước ngày 1-7-2014 (thời điểm mà Nghị định 43 có hiệu lực) mà bên nhận chuyển quyền SDĐ chỉ có GCN của bên chuyển quyền SDĐ hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền SDĐ theo quy định thì có thể thực hiện theo 2 phương án: Một là, họ trực tiếp nộp đơn đề nghị cấp GCN; hai là Văn phòng đăng ký đất đai thông báo bằng văn bản cho bên chuyển quyền và niêm yết tại trụ sở UBND cấp xã nơi có đất về việc làm thủ tục cấp GCN cho họ. Trường hợp không rõ địa chỉ của người chuyển quyền để thông báo thì đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương 3 số liên tiếp.  


Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo hoặc đăng tin lần đầu tiên trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương mà không có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp thì cơ quan chức năng tiến hành thủ tục cấp sổ. Trong trường hợp có tranh chấp thì Văn phòng đăng ký đất đai hướng dẫn các bên nộp đơn đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định.


Q.L