Ngày 21-12-2012, Tòa án nhân dân TP. Nha Trang thông báo thụ lý vụ kiện “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu…”. Nguyên đơn là ông H., bị đơn là ông Ng. Theo ông H., trước đây, vợ chồng ông Ng. có vay tiền của ông nhưng không trả.
Ngày 21-12-2012, Tòa án nhân dân (TAND) TP. Nha Trang thông báo thụ lý vụ kiện “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu…”. Nguyên đơn là ông H., bị đơn là ông Ng. Theo ông H., trước đây, vợ chồng ông Ng. có vay tiền của ông nhưng không trả. Do đó, đầu năm 2009, ông H. đã khởi kiện tại TAND TP. Nha Trang. Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự ngày 6-1-2009 của TAND TP. Nha Trang, ông Ng. phải trả nợ cho ông H. số tiền 454 triệu đồng.
Sau khi quyết định có hiệu lực, ông Ng. vẫn không thi hành án. Quá trình xác minh được biết, trước đó (vào tháng 12-2008), ông Ng. đã lập văn bản thỏa thuận phân chia tài sản thừa kế của cha để lại, nhưng ông không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông H. Nay, ông H. khởi kiện đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 15-12-2008, được Phòng Công chứng số 1 tỉnh Khánh Hòa chứng nhận ngày 16-1-2009 là vô hiệu.
Hiện nay, các bên đương sự không hợp tác nên việc giải quyết vụ việc này vẫn chưa có tiến triển. Có ý kiến cho rằng, việc Tòa án thụ lý yêu cầu kiện dân sự của nguyên đơn không chính xác là nguyên nhân dẫn đến việc không thể giải quyết sớm vụ việc.
Luật Công chứng (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2007) quy định: Hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công chứng theo quy định của Luật này gọi là văn bản công chứng (VBCC). VBCC có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong VBCC không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
Theo quy định tại Điều 45 Luật này, người được đề nghị Tòa án tuyên bố VBCC vô hiệu khi có căn cứ cho rằng, việc công chứng có vi phạm pháp luật là: Công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Mặt khác, căn cứ khoản 6, Điều 26 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011), yêu cầu tuyên bố VBCC vô hiệu là yêu cầu dân sự.
Trở lại vụ việc trên, quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa ông H. và ông Ng. đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực từ ngày 6-1-2009. Vì vậy, quyền lợi của ông H. nếu có chỉ được giải quyết theo pháp luật thi hành án dân sự. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng, việc bị đơn có giao dịch dân sự và có việc công chứng trái pháp luật…, ông H. cũng chỉ được quyền yêu cầu về việc dân sự, đó là “yêu cầu tuyên bố VBCC vô hiệu” (không có tranh chấp, không có bị đơn). Việc xem xét và quyết định vụ việc dân sự nói trên là do tòa án giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định tại các Điều 339a, 339b, 339c Bộ Luật Tố tụng dân sự 2004 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2011).
Vì vậy, không hiểu TAND TP. Nha Trang xác định yêu cầu của ông H. là vụ kiện dân sự để thụ lý giải quyết là căn cứ trên quy định nào của pháp luật?
Luật sư NGUYỄN HỒNG HÀ



