Ra đời vào năm 1950 trên địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có bước chuyển mới, Tiểu đoàn 59 trong đội hình Trung đoàn 803 chủ lực cơ động của Liên khu 5 đã lập được những chiến công vang dội trên khắp chiến trường Liên khu, góp phần cùng quân dân cả nước đập tan âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ. Một trong những dấu ấn quan trọng của Tiểu đoàn 59 và người Tiểu đoàn trưởng tài năng Nguyễn Lựu trên chiến trường Nha Trang - Khánh Hòa là tham gia hoạt động chiến dịch Hè 1953, diệt hàng loạt tháp canh, đánh bại trận càn lớn của địch vào Chiến khu Đá Bàn, bảo vệ an toàn căn cứ, làm nên chiến thắng Vườn Gòn - Đá Bàn nổi tiếng.
1. Sự ra đời của Tiểu đoàn 59 và vai trò chỉ huy xuất sắc của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Lựu
Bước vào năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã giành được những thắng lợi hết sức quan trọng. Thực dân Pháp bị thất bại, ngày càng lúng túng, buộc phải chuyển từ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh sang đánh kéo dài. Ta từ tích cực cầm cự chuyển sang phản công, tiến công địch. Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng (ngày 01/02/1950) đã nêu rõ nhiệm vụ quân sự cần kíp lúc này là: “Một mặt chiến đấu để tiêu diệt sinh lực địch, một mặt gấp rút bồi dưỡng và xây dựng Quân đội nhân dân, để trong năm nay thực hiện đầy đủ điều kiện chuyển sang tổng tiến công. Nhiệm vụ tác chiến và nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân phải liên kết chặt chẽ với nhau và cùng tiến hành. Về tác chiến, phát triển du kích đến cực độ vẫn là nhiệm vụ chính trong lúc này, song đồng thời phải tập đánh vận động chiến thực sự, việc đánh những đội quân ứng chiến của địch và chống càn quét một cách hiệu nghiệm phải đi đôi với diệt những vị trí và thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch” .
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, chủ trương của Liên khu ủy và quyết định của Bộ Tư lệnh Liên khu 5 về xây dựng lực lượng vũ trang, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày cao của chiến trường Liên khu, Đại đội 6 (Đà Nẵng), Đại đội 4, Đại đội 11 (Quảng Nam) được tập trung lại để hình thành Tiểu đoàn 59.
Ngày 10/6/1950, tại thôn 10, xã Tam Chánh, huyện Tam Kỳ (nay là thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam), Tiểu đoàn 59 chính thức được thành lập. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn gồm hai đồng chí: Nguyễn Lựu - Tiểu đoàn trưởng, Phạm Đạo - Chính trị viên. Tiểu đoàn khi mới thành lập gồm hai đại đội: Đại đội 6 độc lập của thành phố Đà Nẵng, Đại đội 11 của tỉnh Quảng Nam và cơ quan Tiểu đoàn bộ gồm các cán bộ tham mưu tác chiến, chính trị, hậu cần và các phân đội trực thuộc. Cuối năm 1950, Tiểu đoàn được bổ sung thêm Đại đội 4 bộ đội địa phương của tỉnh Quảng Nam.
Về tổ chức Đảng, toàn Tiểu đoàn 59 tổ chức thành một Liên chi gồm 4 chi bộ, trong đó có 3 chi bộ đại đội và 1 chi bộ cơ quan.
Ngay sau khi thành lập, Tiểu đoàn 59 dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Lựu đã lập được nhiều thành tích trong chống địch càn quét ở Quảng Nam khi tham gia chiến dịch Hoàng Diệu mùa hè năm 1950. Đến giữa năm 1951, sau một thời gian vừa được củng cố, vừa luyện tập, Tiểu đoàn 59 được lệnh của Liên khu từ Quảng Ngãi trở lại chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng hoạt động độc lập với nhiệm vụ tổ chức đánh tiêu diệt một số tháp canh, diệt từng bộ phận nhỏ của địch đi lùng sục, cướp bóc nhằm phá thế kìm kẹp của địch ở vùng tạm chiếm.
Đánh tháp canh là đánh địch trong công sự, một vấn đề hoàn toàn mới mẻ đối với bộ đội Liên khu 5. Lúc bấy giờ, đánh phá hệ thống tháp canh (chiến thuật Delatour) là một yêu cầu bức thiết nhằm đánh bại chủ trương củng cố hành lang vùng chiếm đóng, đẩy lùi lực lượng kháng chiến ra ngoài, thực hiện chính sách chiêu an, bình định của địch. Cách đánh này chưa từng kinh qua trong thực tiễn nên phải vừa đánh, vừa rút kinh nghiệm.
Trên cương vị là Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Lựu và Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 59 đã dày công nghiên cứu, tìm tòi cách đánh hệ thống tháp canh của địch ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Tháp canh được chọn đánh đầu tiên là tháp canh Thanh Tú thuộc địa phận xã Điện Hòa, ven quốc lộ 1. Trong ngày xuất quân, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn đã tổ chức buổi họp phát động khí thế thi đua. Sau khi nghe chỉ huy Tiểu đoàn nêu rõ mục đích, ý nghĩa trận đánh, toàn đơn vị nhen lên mối căm thù giặc Pháp xâm lược, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu nhân dân, quê hương. Từ cán bộ đến chiến sĩ, từng đơn vị nhỏ tiểu đội, trung đội cùng trao đổi xây dựng tình đoàn kết hiệp đồng trong chiến đấu và nêu cao quyết tâm giết giặc lập công. Cuộc họp đêm hôm đó tuy giản dị nhưng rất đỗi thiêng liêng như một lời tuyên thệ: đoàn kết, hiệp đồng, thi đua lập công. Với quyết tâm cao độ, ý chí kiên cường và sức tiến công mãnh liệt, đơn vị đã tiêu diệt gọn tháp canh Thanh Tú. Đây là thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng, đúc rút kinh nghiệm cho những trận đánh tháp canh sau này.
Bằng các hoạt động độc lập tác chiến, Tiểu đoàn 59 dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Lựu trong tháng 5 năm 1950 đã hạ được 7 tháp canh, diệt 85 tên địch, thu 5 súng trung liên, 15 tiểu liên, 120 súng trường và nhiều quân trang quân dụng khác . Những thắng lợi có ý nghĩa trong đợt hoạt động này đã chứng tỏ sự lớn mạnh của Tiểu đoàn 59, một đơn vị mới thành lập, cũng là đơn vị đầu tiên đánh và đánh thắng địch nằm trong công sự, phá vỡ thế phòng ngự bằng hệ thống tháp canh. Trong thắng lợi đó đã thể hiện vai trò chỉ huy xuất sắc của Ban Chỉ huy Tiểu đoàn nói chung, đồng chí Nguyễn Lựu nói riêng.
Tháng 11 năm 1951, từ chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng, Tiểu đoàn 59 được Bộ Tư lệnh Liên khu 5 điều về Bình Định để bổ sung cho Trung đoàn chủ lực 803, thay cho Tiểu đoàn 49 đi làm nhiệm vụ quốc tế ở Hạ Lào.
Đứng trong đội hình của Trung đoàn chủ lực 803, Tiểu đoàn được kiện toàn về tổ chức, trang bị, học tập chính trị, huấn luyện quân sự nhằm nâng cao kỹ năng chiến đấu. Ngoài ba đại đội bộ binh: Đại đội 6, Đại đội 11, Đại đội 4, Tiểu đoàn được tổ chức thêm một đại đội trợ chiến trang bị súng cối, đại liên. Qua thời gian chỉnh huấn học tập quân sự, chính trị tư tưởng, kỹ chiến thuật của Tiểu đoàn được nâng cao với nhiều cách đánh mới, vũ khí được tăng cường, toàn thể cán bộ, chiến sĩ phấn khởi đón chờ thời cơ lập công.
Với những kinh nghiệm đánh tháp canh và sau khi được chỉnh huấn, chỉnh quân, Tiểu đoàn tham gia và lập nhiều chiến công vang dội trong chiến dịch đông xuân 1951 - 1952 tại Nam Tây Nguyên, chiến dịch Hè Thu 1952 tại Quảng Nam - Đà Nẵng, chiến dịch Đông Xuân 1953. Tiêu biểu là các trận đánh Ai Nu, Kỳ Lam, Lệ Sơn, Đồn Nhất - Hải Vân quan, Thượng An - lô cốt Đầu Đèo, Đường 19... Sau chiến thắng An Khê, Liên khu 5 tổ chức Hội nghị tổng kết chiến dịch Đông Xuân 1953 và Đại hội Chiến sĩ thi đua tuyên dương, trao cờ danh dự cho các đơn vị, cá nhân lập công xuất sắc. Đồng chí Trần Xưng của Tiểu đoàn 59 được Đại hội tuyên dương.
2. Những chiến công của Tiểu đoàn 59 trên chiến trường Nha Trang - Khánh Hòa trong chiến dịch Hè 1953
Thực hiện Nghị quyết quân sự của Liên khu ủy về việc đẩy mạnh phong trào đấu tranh trong vùng địch hậu, tích cực tiêu diệt địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đẩy mạnh phong trào địa phương và tạo điều kiện cho chủ lực học tập nâng cao đánh vận động , Bộ Tư lệnh Liên khu quyết định mở chiến dịch Hè 1953, phối hợp với các chiến trường trong cả nước.
Đại bộ phận Trung đoàn 803 được lệnh lên Nam Tây Nguyên. Riêng Tiểu đoàn 59 tách khỏi đội hình Trung đoàn vào Khánh Hòa với nhiệm vụ: Tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, phá thế uy hiếp của địch đối với vùng du kích, hỗ trợ phong trào chiến tranh du kích vùng sau lưng địch, tham gia củng cố cơ sở chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang địa phương.
Sau một tuần lễ vào Phú Yên, vượt sông Ba, leo dốc Chanh, Tiểu đoàn đã dừng chân tại chiến khu Đá Bàn. Trên đường hành quân, đồng chí Đại đội phó Nguyễn Văn Anh bị ốm nặng và mất khi leo qua dốc Chanh; đồng chí Cổ bị biệt kích bắn lén khi mới đến Đá Bàn.
Đơn vị vào đến nơi, nhưng theo yêu cầu của Tỉnh ủy và Tỉnh đội Khánh Hòa, đồng chí Tiểu đoàn phó Phan Quang Tiệp cùng Đại đội 11 nhận nhiệm vụ về hoạt động ở Hòn Hèo, một vùng sát biển Ninh Hòa.
Ở Đá Bàn lúc này còn lại Đại đội 6, Đại đội 4 và Đại đội 8 trợ chiến, do các đồng chí Nguyễn Lựu, Phạm Đạo và Trung đoàn phó Hà Vy Tùng chỉ huy. Tiểu đoàn 59 là đơn vị biệt phái của Liên khu hoạt động với nhiệm vụ như một lực lượng vũ trang địa phương. Để có thể thực hiện nhiệm vụ thống nhất, có hiệu quả, các đơn vị chủ lực cùng với địa phương thành lập Ban chỉ huy chung gồm có đại diện Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chỉ huy Trung đoàn 803 (Hà Vy Tùng), Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 59 (Nguyễn Lựu) và các ban cán sự vùng, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Khánh Hòa.
Nha Trang - Khánh Hòa là trung tâm chính trị, quân sự của địch ở cực Nam Trung Bộ, địch đã chốt chặn, khống chế toàn bộ địa bàn này bằng một hệ thống đồn bốt và tháp canh theo chiến thuật Delatour dày đặc, bố trí dọc các trục đường quan trọng trong tỉnh và lấn sâu vào các thôn, xóm.
Ngay sau khi đặt chân đến căn cứ Đá Bàn, với kinh nghiệm đánh tháp canh ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Lựu và Ban Chỉ huy Tiểu đoàn đã triển khai cho đội hình còn lại tiêu diệt các tháp canh của địch ở Khánh Hòa. Theo đó, ngày 6/4/1953, Đại đội 6 và Đại đội 4 diệt hai tháp canh Tân Phong và Nhĩ Sự. Đêm ngày 8/4/1953, Đại đội 11 diệt tháp canh Cầu Lớn trên đường đi Ninh Hòa - Hòn Khói và diệt một trung đội lính ngụy, bắt 42 tù binh, thu vũ khí, giải thoát 50 dân thường bị giặc bắt. Ngày 15/4/1953, Đại đội 11 diệt tiếp hai tháp canh Mỹ Lệ và Hội Bình ở Hòn Hèo, bắt 40 tù binh, thu nhiều vũ khí.
Sau khi tiêu diệt một loạt các tháp canh, Tiểu đoàn 59 phối hợp với bộ đội địa phương đánh tiếp đồn Quảng Cư. Nhưng khi hành quân đến nơi thì được tin quân địch đã tăng cường quân số và vũ khí, trong khi lực lượng của ta không đủ một tiểu đoàn. Lượng sức mình khó có thể giành thắng lợi nên ta đã dừng lại.
Tiểu đoàn quay trở về căn cứ chuẩn bị chống càn. Đúng như ta dự đoán, biết thông tin lực lượng chủ lực của ta đã vào Khánh Hòa, địch huy động một trung đoàn lính Âu - Phi - ngụy hỗn hợp do Thiếu tướng Le Blanc chỉ huy với đầy đủ hỏa lực càn vào chiến khu Đá Bàn nhằm phá căn cứ, tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta. Tỉnh đội Khánh Hòa mở cuộc họp với Tiểu đoàn bàn cách phối hợp chiến đấu, quyết tâm tiêu diệt địch để bảo vệ Chiến khu Đá Bàn.
Chỉ huy trận đánh này gồm các đồng chí: Hà Vi Tùng - Trung đoàn phó, Nguyễn Lựu - Tiểu đoàn trưởng, Phạm Đạo - Chính trị viên Tiểu đoàn. Lực lượng chiến đấu gồm: Đại đội 6, Đại đội 4, Đại đội 8 trợ chiến và một lực lượng bộ đội địa phương. Ta chọn sở “Thằng Lô” (một đồn điền cũ của người Pháp) làm điểm quyết chiến.
Theo đúng kế hoạch, ta nhanh chóng triển khai đội hình phục kích, chờ cho cánh quân địch vào trận địa sẽ xuất kích, nhưng do lực lượng không cân sức, ta đã gặp khó khăn ngay từ đầu (do trinh sát nắm không chắc, báo địch chỉ có 1 tiểu đoàn). Các cỡ súng của địch nhả đạn tới tấp vào đội hình quân ta. Tốp địch đi đầu bị ta chặn đánh trước đó đã dừng lại, quay ra phản kích, tốp địch phía sau tràn lên vây ép ta. Theo lệnh Tiểu đoàn trưởng, các bộ phận, các mũi tiến công của ta dùng đại liên, trung liên và súng các cỡ tập trung chế áp mạnh vào các hỏa điểm địch, bắn điểm xạ chính xác và dồn dập vào đội hình địch. Với tinh thần bình tĩnh, quả cảm, quân ta luôn bám sát nhau giữ liên lạc và cự ly chiến đấu giữa các đội hình, từng tổ ba người lợi dụng địa hình, địa vật bắn tỉa, chọn đúng thời cơ bất thần xông ra dùng báng súng, lưỡi lê đánh giáp lá cà, xung phong tiêu diệt địch. Điển hình khi một khẩu đại liên địch bắn mạnh vào sườn cánh quân ta, đồng chí Nguyễn Điểu đã dũng cảm chọn đúng thời cơ xông ra dùng báng súng phang mạnh vào cánh tay tên xạ thủ, nâng bổng nòng súng Browning của địch lên cao, cùng lúc đó hai người còn lại trong tổ là đồng chí Lực và đồng chí Hồng đã nhanh chóng cướp khẩu đại liên, dùng súng địch đánh địch.
Với tinh thần chiến đấu ngoan cường, trận đánh kéo dài từ 13 giờ đến 16 giờ chiều đã gây cho địch nhiều thiệt hại nặng. Không thực hiện được âm mưu đánh phá căn cứ Đá Bàn, địch buộc phải rút lui. Tuy có gặp khó khăn từ đầu, nhưng trận này ta đã giành thắng lợi lớn, hơn 400 tên địch chết và bị thương. Đêm đến, địch phải cho máy bay đến thả pháo sáng để thu gom số quân thiệt mạng và đưa số bị thương về trường Tiểu học Ninh Hòa cứu chữa. Mấy hôm sau, nhà trường phải nghỉ học để cho quân địch giải quyết hậu quả. Về phía ta, trong toàn bộ trận chống càn có 25 đồng chí hy sinh, phần lớn là cán bộ tiểu đội, tổ trưởng tổ ba người, trong đó hầu hết là đảng viên.
Thắng lợi của trận chống càn này đã tạo được tiếng vang lớn. Chỉ với một lực lượng nhỏ, ta đã đánh thắng cả một trung đoàn địch mạnh về quân số và hỏa lực, làm thất bại âm mưu càn quét của địch, bảo vệ an toàn chiến khu Đá Bàn - một căn cứ kháng chiến của tỉnh Khánh Hòa.
Sau trận chống càn thắng lợi, theo đề nghị của Tỉnh ủy và Ban Chỉ huy Tỉnh đội Khánh Hòa, Tiểu đoàn cử một lực lượng nhỏ vào Nam Khánh Hòa hoạt động, hỗ trợ địa phương phát triển chiến tranh du kích. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn cử đồng chí Trương Công Vọng - cán bộ của Tiểu ban Chính trị Tiểu đoàn cùng 9 đồng chí khác vào Nam Khánh Hòa. Đúng như nhận định, lực lượng kháng chiến ở đây, nhất là Lực lượng vũ trang địa phương còn tương đối yếu, địch ít khi bị đánh nên chúng có phần chủ quan, xem thường.
Với lực lượng nhỏ nên ta vận dụng lối đánh đặc công, chỉ trong một đêm ta đã tiêu diệt ba tháp canh: Phú Nẫm, Phú Cốc và Cầu Thành. Ba hôm sau, ta diệt tiếp hai tháp canh: Am Chúa và Đảnh Thạnh.
Tính đến cuối tháng 5 năm 1953, sau khoảng hơn một tháng vào Khánh Hòa hoạt động độc lập, Tiểu đoàn 59 đã lập chiến công lớn: diệt 10 tháp canh; đánh thiệt hại nặng một lực lượng lớn của địch càn quét vào chiến khu Đá Bàn; tổ chức xây dựng, huấn luyện, cho Tỉnh đội Khánh Hòa một trung đội biết cách đánh đặc công; góp phần phát triển chiến tranh du kích ở vùng địch hậu.
Qua thắng lợi này, một lần nữa chứng tỏ khả năng, sở trường của Tiểu đoàn trong việc đánh phá hệ thống tháp canh và xây dựng phong trào du kích ở vùng sau lưng địch. Thắng lợi oanh liệt của Tiểu đoàn 59 trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đã đi vào lịch sử chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, Liên khu 5 nói riêng. Vào thời điểm năm 1953, thực dân Pháp đã chuyển hướng chiến lược từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang đánh lâu dài và tiến hành bình định ráo riết ở Nam Trung bộ. Ngoài âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, Pháp đẩy mạnh càn quét vùng căn cứ kháng chiến. Lúc này, hệ thống tháp canh gây cho ta rất nhiều khó khăn, đặc biệt về giao liên, vận chuyển. Trong bối cảnh đó, Liên khu 5 đã quyết định phá tháp canh đánh bại chiến thuật De La Tour là nhiệm vụ quan trọng của Lực lượng vũ trang Liên khu. Sử dụng Tiểu đoàn 59 tách khỏi đội hình Trung đoàn 803 hành quân vào Khánh Hòa chiến đấu độc lập là quyết định sáng suốt của Liên khu ủy. Tiểu đoàn 59 phần lớn lực lượng là chiến sĩ biệt động và quân du kích, có cách đánh sở trường, bí mật, thọc sâu, đánh nhanh, diệt gọn. Thực tế chứng minh, năm 1949, năm 1950 các chiến sĩ biệt động trong đội hình Tiểu đoàn đã lập nhiều chiến công xuất sắc ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Khi được giao nhiệm vụ tiêu diệt tháp canh, Tiểu đoàn 59 tiếp tục phát huy sở trường hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ.
Cùng với tiêu diệt nhiều tháp canh, Tiểu đoàn 59 còn giành thắng lợi quan trọng ở chiến khu Đá Bàn, đã làm thất bại âm mưu của địch càn quét triệt phá cơ sở chiến khu kháng chiến tỉnh Khánh Hoà. Trận Vườn Gòn - Đá Bàn ngày 20/4/1953 là trận chiến đấu anh dũng, kiên cường, mưu trí, sáng tạo của Tiểu đoàn 59. Mặc dù lực lượng chênh lệch, quân ta ít hơn địch rất nhiều, song Tiểu đoàn đã đánh bại Trung đoàn hỗn hợp Âu - Phi - Ngụy. Qua trận chiến đấu, Tiểu đoàn đã làm cho địch hoang mang, dao động, suy sụp tinh thần trước thế đánh hiệu quả của bộ đội chủ lực Việt Nam.
Chiến thắng của Tiểu đoàn 59 trên địa bàn tỉnh Khánh Hoà đã lùi xa nhưng ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm vẫn còn nguyên giá trị. Đó là các bài học về sử dụng lực lượng và làm công tác chuẩn bị chiến đấu; phát huy sức mạnh chính trị, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, quyết chiến, quyết thắng; là sự mưu trí, linh hoạt, sáng tạo của người chỉ huy; đồng thời, góp phần làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong đó, nổi bật lên vai trò chỉ huy xuất sắc của đồng chí Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Lựu. Ông là một tiểu đoàn trưởng tài năng, mưu lược, giỏi về quân sự, vững vàng, sắc sảo, nhạy bén về chính trị; là người cán bộ đức độ, hết lòng vì nước, vì dân, luôn thương yêu đồng đội và nhân dân.
. Đại tá Đăng Văn Trụ - Chính ủy Sư đoàn 305/Quân khu 5
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin