
Những năm gần đây, nghề khai thác cá ngừ đại dương phát triển khá nhanh và mạnh cả về quy mô công nghiệp và quy mô nhỏ trên các phương tiện truyền thống của ngư dân 3 tỉnh...
|
| Tàu câu cá ngừ của ngư dân Khánh Hòa neo đậu tại cảng cá Cù Lao. |
Những năm gần đây, nghề khai thác cá ngừ đại dương (CNĐD) phát triển khá nhanh và mạnh cả về quy mô công nghiệp và quy mô nhỏ trên các phương tiện truyền thống của ngư dân 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Do có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là xuất khẩu, CNĐD được Bộ Thủy sản chọn là đối tượng ưu tiên phát triển nghề cá xa bờ. Tuy nhiên, do đội tàu nhỏ, ngư cụ và trang thiết bị lạc hậu, sản lượng khai thác CNĐD ở Khánh Hòa chưa xứng với tiềm năng.
Năm 1990, thông qua việc chuyển giao công nghệ của một số doanh nghiệp (DN) đánh bắt và chế biến thủy sản, nghề khai thác CNĐD mới bắt đầu xuất hiện ở nước ta. Năm 2005, sản lượng CNĐD cả nước đạt trên 11.000 tấn, tương đương trên 850 tỉ đồng. Tuy vậy, nhìn lại những kết quả đã đạt được, con số này chỉ đạt 1/4 trữ lượng cá ngừ ở vùng biển nước ta có khả năng khai thác. Điều này cho thấy, năng lực khai thác CNĐD ở nước ta chưa xứng với tiềm năng và ngày càng bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập trong quá trình tổ chức quản lý, khai thác và chế biến xuất khẩu.
Ở Khánh Hòa, có trên 300 tàu thuyền tham gia nghề câu CNĐD. Hầu hết các tàu này được hoán cải từ tàu làm nghề lưới rê, lưới kéo, lưới vây, câu mực và câu đáy. Loại tàu của ngư dân thường có vỏ tàu bằng gỗ, chiều dài từ 13 - 18m, lắp máy công suất từ 45 - 300 CV. Do đội tàu nhỏ, sản lượng cá ngừ khai thác được ở Khánh Hòa hàng năm chỉ đạt từ 1.500 - 2.000 tấn. Mùa vụ khai thác chính từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mùa vụ phụ từ tháng 5 đến tháng 10. Đến nay, CNĐD được đánh bắt ở Khánh Hòa chủ yếu bằng nghề câu vàng. Chiều dài vàng câu từ 40 - 60km, tương ứng khoảng 400 - 1.600 lưỡi câu. Hầu hết các tàu được trang bị máy thu dây câu chính, máy định vị vệ tinh, la bàn, hệ thống thông tin… Tuy nhiên, thiết bị và kỹ thuật bảo quản trên các tàu còn thiếu và lạc hậu, thường chỉ sử dụng nước đá xay để bảo quản sản phẩm. Phần lớn ngư dân chỉ quan tâm đến số lượng mà chưa chú trọng đến chất lượng sản phẩm.
Thực tế, thiết bị và kỹ thuật bảo quản trên tàu khai thác quyết định chất lượng sản phẩm đánh bắt và hiệu quả kinh tế của tàu. Đội tàu khai thác công nghiệp hiện đại của các DN có khoang bảo quản lạnh, hầm cấp đông, có đội ngũ thuyền viên được đào tạo kỹ thuật sơ chế và bảo quản sản phẩm sau khi thu hoạch nên chất lượng cá ngừ khá tốt. CNĐD đánh bắt được thường có khối lượng từ 25 - 70kg, nhu cầu thị trường đòi hỏi bảo quản nguyên con có nội tạng hoặc không có nội tạng nên việc bảo quản bằng nước đá xay của ngư dân gặp nhiều khó khăn và không đảm bảo chất lượng sản phẩm. Mặt khác, thiết bị không phù hợp, tính cách nhiệt kém dẫn đến thời gian lưu giữ cá không được lâu. Đặc biệt với cá ngừ, thời gian bảo quản lâu sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm vì thịt cá ngừ nhanh bị phân hủy.
Hiện nay, Khánh Hòa có 42 nhà máy, xí nghiệp, phân xưởng tham gia chế biến thủy sản xuất khẩu. Trong đó có 7 DN tổ chức thu mua CNĐD là Công ty TNHH Trúc An, Hải Vương, Tiến Thịnh, Thịnh Hưng, Hoàng Hải, Đại Dương (Công ty TNHH), Công ty Cổ phần Nha Trang Seafoods F17… Đây là điều kiện khá thuận lợi cho người dân khi không phải lo lắng đến đầu ra của sản phẩm.
ANH TUẤN




