
Giai đoạn 2000 - 2005, kinh tế Khánh Hòa (KH) tăng trưởng với nhịp độ khá, GDP tăng gần 10%, thu ngân sách tăng nhanh...
|
| Các doanh nghiệp chế biến hải sản ở Khánh Hòa được đánh giá là năng động trong việc tiếp cận thị trường. |
Giai đoạn 2000 - 2005, kinh tế Khánh Hòa (KH) tăng trưởng với nhịp độ khá, GDP tăng gần 10%, thu ngân sách tăng nhanh. Tuy nhiên, trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh các tỉnh năm 2005 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Khánh Hòa nằm ở top “tương đối thấp” với 54,8/100 điểm. Vậy làm gì để nâng cao sức cạnh tranh cho KH nói chung và doanh nghiệp (DN) trong tỉnh nói riêng?
KH hiện có hơn 5.000 DN đang hoạt động, chiếm chưa đến 5% số lượng DN trong cả nước. Trong đó 95% DN có quy mô vừa và nhỏ, gần 10% DN có thiết bị công nghệ hiện đại. Trong số này, bình quân mỗi DN có số vốn khoảng 2 tỉ đồng. Như vậy, các DN đang hoạt động trong tình trạng vừa ít vốn, vừa kém hiệu quả, điều đó ảnh hưởng không nhỏ cho việc đầu tư đổi mới công nghệ. Hiện nay, cách giải quyết nguồn vốn của các DN chủ yếu là vay ngân hàng, huy động vốn của cổ đông hoặc tìm nguồn từ các công ty cho thuê tài chính. Tuy nhiên, việc vay vốn ẩn chứa rất nhiều rủi ro nếu DN không có những định hướng và mục tiêu đúng đắn. Cụ thể DN KH cần xác định: mình không có nhiều thuận lợi như các DN của TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai… cách tốt nhất để phát triển là làm vệ tinh cho các DN nước ngoài hoặc các trung tâm công nghiệp lớn trong nước. Thực hiện gia công, sản xuất linh kiện, phụ tùng cho tập đoàn lớn…
Phương châm “buôn có bạn bán có phường” trong bối cảnh hiện nay cực kỳ có ý nghĩa. Các mặt hàng quan trọng muốn ra được thị trường phải thông qua các nhà phân phối lớn. Vì vậy, các DN phải tranh thủ các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới. Kinh nghiệm của các DN Trung Quốc cho thấy, họ thường dựa vào các tập đoàn kinh tế lớn để vươn lên và trong thực tế họ đã phát triển khá tốt. Trong việc liên kết này không ai cho không ai cái gì. Họ có tiền, có công nghệ còn ta có nguồn nguyên liệu, nhân lực… Bước đầu có thể có lợi ít, nhưng dần dần các DN của chúng ta lớn mạnh lên chắc chắn sẽ tìm được chỗ đứng trên thị trường.
Phần đông DN KH có quy mô vừa và nhỏ, vì thế nếu không có sự đoàn kết, bắt tay hợp tác tạo nên sức mạnh tổng hợp thì rất khó cạnh tranh ngay cả trên “sân nhà” chứ đừng nói tới “sân khách”. Các DN có thể liên kết để cùng nhau sản xuất một mặt hàng, liên kết và phân công theo công đoạn, dây chuyền sản xuất, hoặc nhiều DN nhỏ cùng làm vệ tinh xoay quanh các DN lớn. Sự hợp tác này cũng phù hợp với xu hướng kinh doanh hiện nay trên thế giới, hợp tác để phát huy thế mạnh của đối tác hoặc tận dụng lợi thế trong kênh phân phối. Ở đó, sản phẩm của DN này sẽ đuợc DN khác tiêu thụ, từ đó tạo ra một vòng quay liên hoàn, ai cũng có lợi.
Những DN đang có sức ì nặng trong tư duy về cạnh tranh cần phải thay đổi. Nếu xét thấy có khả năng đầu tư trang thiết bị để chuyển từ sản phẩm “thô” sang “tinh” nhằm giảm giá thành và nâng cao sức cạnh tranh thì nên mạnh dạn đầu tư. Gia nhập WTO, chúng ta không chỉ cạnh tranh trên lợi thế nguồn tài nguyên phong phú và giá nhân công rẻ mà phải tính đến hàm lượng tri thức trong sản phẩm. Ví dụ trong lĩnh vực chế biến và xuất khẩu thủy sản của tỉnh, trước năm 2000, ngành này gặp rất nhiều khó khăn vì công nghệ nghèo nàn, lạc hậu… dẫn đến sản phẩm không đủ điều kiện để xâm nhập thị trường quốc tế. Sau một thời gian loay hoay tìm đường ra cho sản phẩm, các DN này đã năng động nắm bắt thời cơ, đổi mới công nghệ, tạo ra nhiều sản phẩm mới… đưa KH lên vị trí thứ tư trong làng xuất khẩu thủy sản cả nước.
Một cuộc điều tra nhỏ với 10 doanh nhân KH thì có đến 7 giám đốc chưa được đào tạo bài bản từ các trường đại học về quản lý, điều hành DN. Có thể đây chưa phải là con số chính thức, nhưng những giám đốc không có chuyên môn này đã và đang tạo ra những ảnh hưởng lớn về chất lượng của đội ngũ quản lý DN ở KH. Cũng không loại trừ những doanh nhân chưa qua trường lớp chuyên ngành mà vẫn rất thành công trong công việc kinh doanh và quản lý. Điểm tích cực dễ nhận thấy ở bộ phận doanh nhân này là tuổi đời trẻ (khoảng 30 - 40 tuổi), ham học hỏi và rất năng động. Do đó, họ có khả năng thay đổi nhận thức và tiếp nhận tri thức của thế giới ở mức độ cao.
Bên cạnh những trải nghiệm thực tế, doanh nhân cần tự nâng cao kiến thức cho mình thông qua những lớp học trang bị kỹ năng quản trị - kinh doanh được mở ra bởi các hiệp hội, trung tâm đào tạo, để khi nói đến doanh nhân KH là nói đến những người có tầm nhìn chiến lược, nhạy bén và có sức sáng tạo; thành thạo các kỹ năng về tin học, ngoại ngữ; am hiểu về các chức năng tài chính, quản trị hành chính…
Có đến 90% người tiêu dùng KH cho rằng thương hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm. Mặc dù vậy, việc đầu tư cho thương hiệu còn quá ít, chỉ khoảng 10 - 12% sản phẩm của KH được cho là có thương hiệu. Vì vậy, vấn đề cấp thiết đối với DN là phải lập kế hoạch xây dựng thương hiệu. Muốn vậy, các công ty phải tiếp cận vấn đề thương hiệu một cách tổng thể. Xây dựng thương hiệu trong toàn bộ công ty; trên cơ sở nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng; đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước; phát triển hệ thống kênh phân phối; quản lý để đảm bảo uy tín và hình ảnh của thương hiệu.
Chỉ có 10 - 15% DN KH quan tâm đến quảng bá sản phẩm. DN cần tăng mức độ quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tham gia giới thiệu sản phẩm, triển lãm ở các hội chợ. Internet cũng là một phương tiện quảng cáo hữu hiệu, với việc áp dụng thương mại điện tử, DN sẽ có cơ hội quảng bá sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước với một khoản chi phí không cao. Bên cạnh đó, DN cũng nên lưu ý, quảng bá thương hiệu chỉ đạt hiệu quả tối đa khi kết hợp những chương trình hỗ trợ khác. Ví dụ như bột giặt OMO không chỉ thành công nhờ các hoạt động quảng cáo trên truyền hình mà còn nhờ các chương trình khuyến mại, tài trợ học sinh nghèo hiếu học… tạo ảnh hưởng tích cực đến thái độ của người mua.
Chính vì vậy, các DN KH phải có một chiến lược xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế lớn khác. Về thị trường xuất khẩu, không chỉ riêng KH mà nhiều thương hiệu nổi tiếng khác của Việt Nam cũng đang rất khó khăn trong việc xâm nhập thị trường quốc tế. Vì vậy, nên chăng DN KH cần tập trung nguồn lực để xây dựng thương hiệu DN sản xuất và xuất khẩu có uy tín về quản lý chất lượng sản phẩm, giao hàng đúng hạn, có khả năng giao hàng nhanh và có trách nhiệm với cộng đồng xã hội.
LAN HƯƠNG




