Cá trê thuộc họ cá da trơn, thích hợp với môi trường nước ngọt. Chúng sống trong các hang, ngách, mương sình lầy, bùn ao, hồ, suối, bụi tre… Do vậy, muốn có cá trê, người ta tát đìa, hoặc câu ngầm. Cách câu này còn gọi là câu nằm, hay câu ngâm.
Cá trê thuộc họ cá da trơn, thích hợp với môi trường nước ngọt. Chúng sống trong các hang, ngách, mương sình lầy, bùn ao, hồ, suối, bụi tre… Do vậy, muốn có cá trê, người ta tát đìa, hoặc câu ngầm. Cách câu này còn gọi là câu nằm, hay câu ngâm. Ta cũng có thể thả ống trúm để nhử cá. Ống trúm làm bằng ống tre. Giữ lại một đầu mắt tre, đầu kia cưa để trống. Đầu trống này đặt một cái hom, toi để cá vào nhưng nó không thể ra được. Trong đó đựng trùn mỡ trộn đất. Ống trúm có dùi lỗ thông hơi để thoát mùi trùn tanh tưởi. Cá trê nghe mùi trùn, tìm theo vào đầu có hom, toi. Có khi lươn cũng chui vào trong đó.
Cá trê rửa sạch, bỏ hết mang cá tanh hôi. Hàm dưới cá trê ăn rất giòn, béo - “một mâm đám cưới không bằng hàm dưới con cá trê!” Ta cắt bỏ răng, ngạnh cá. Sau khi làm sạch, dùng dao khứa trên thân cá cho dễ thấm đều khi ướp gia vị. Sau đó, đặt cá lên vỉ sắt nướng trên lò lửa than hồng. Lật qua, trở lại vài lần, cá chín vàng, bốc lên mùi thơm lựng. Nếu không có vỉ sắt, ta có thể dùng ghim tre xỏ lụi cong thân cá, xoay nướng chín đều. Thịt cá trê hơi dai, ngọt dịu, có tính lạnh nhưng rất béo. Chấm nước mắm gừng có tính nóng, thơm cay; sự trung hòa hàn - nhiệt trong miếng cá trê nướng vàng lại càng hợp khẩu vị.
Ngày xuân ấm áp, bữa cơm trưa hè thôn dã, một chiều thu vàng lá hiên sân, hay đông sang se lạnh, bất cứ mùa nào, nơi đâu, ăn món cá trê nướng chấm nước mắm gừng tươi, lòng ta vẫn nghe đậm đà hương vị đồng quê ruộng rạ.
Võ Khoa Châu