Trong 10-15 năm qua, người dân Việt Nam chủ yếu quan tâm đến các bệnh lý viêm gan B, C và viêm gan do rượu. Tuy nhiên, những năm gần đây khi số lượng bệnh nhân có những rối loạn chuyển hóa tăng, sử dụng rượu nhiều thì tỷ lệ người dân mắc bệnh lý gan nhiễm mỡ tăng lên rất cao.
Trong 10-15 năm qua, người dân Việt Nam chủ yếu quan tâm đến các bệnh lý viêm gan B, C và viêm gan do rượu. Tuy nhiên, những năm gần đây khi số lượng bệnh nhân có những rối loạn chuyển hóa tăng, sử dụng rượu nhiều thì tỷ lệ người dân mắc bệnh lý gan nhiễm mỡ tăng lên rất cao.
Tỷ lệ mắc gan nhiễm mỡ liên quan đến chuyển hóa tăng cao
Tình trạng gan nhiễm mỡ đang ngày càng gia tăng trong những năm gần đây trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Trước đây, theo quan niệm cũ, bệnh gan nhiễm mỡ được chia làm 2 loại là gan nhiễm mỡ do rượu và gan nhiễm mỡ không do rượu (Non-alcoholic fatty disease-NAFLD).
Gan nhiễm mỡ không do rượu là một bệnh lý mạn tính, mức độ phổ biến và nghiêm trọng của căn bệnh này tỷ lệ thuận với tình trạng béo phì và hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân.
Theo PGS, TS Đào Việt Hằng, Trường Đại học Y Hà Nội, Viện Nghiên cứu và đào tạo tiêu hóa, gan mật, gan nhiễm mỡ không do rượu là một bệnh lý mạn tính cần được quan tâm.
Tại thế giới, gan nhiễm mỡ liên quan đến chuyển hóa là một nhóm bệnh lý phổ biến, nó đã vượt qua gánh nặng của virus viêm gan B, C đặc biệt ở nước phương Tây vì tỷ lệ béo phì, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường rất cao.
Tại Việt Nam, trong những năm qua khi có sự thay đổi chế độ dinh dưỡng sang hướng phương tây hóa, ở chuyên ngành nội tiết, dinh dưỡng cũng gặp tỷ lệ bệnh nhân béo phì, rối loạn mỡ máu, tiểu đường tăng cao.
“Hiện chưa có thống kê đến bệnh lý gan nhiễm mỡ, hoặc viêm gan nhiễm mỡ nhưng theo xu hướng chung của phương tây thì chỉ trong một vài năm nữa cũng sẽ gặp tỷ lệ này tăng dần”, bác sĩ Hằng cảnh báo.
Khoảng 2 năm trước, Hội Gan mật thế giới đưa ra khái niệm mới về bệnh gan nhiễm mỡ liên quan đến chuyển hóa (MAFLD) thay vì dùng thuật ngữ cũ là bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.
Việc đưa ra khái niệm này đã được các chuyên gia trên thế giới thống nhất giúp đánh giá toàn diện hơn các yếu tố nguy cơ chuyển hóa của người bệnh bên cạnh tiến triển mạn tính tại gan. Theo đó, khi người bệnh có bệnh gan nhiễm mỡ, ngoài việc đánh giá tình trạng nặng tại gan, phải đánh giá các yếu tố chuyển hóa khác và đánh giá nguy cơ dẫn đến xơ gan và ung thư gan.
Theo bác sĩ Hằng, thói quen sinh hoạt chính dẫn đến gan nhiễm mỡ gồm: Sử dụng bia, rượu; Không sử dụng bia, rượu chủ yếu do liên quan đến chuyển hóa.
Trường hợp gan nhiễm mỡ do liên quan đến chuyển hóa thường gặp ở người bệnh có thể mắc bệnh lý chuyển hóa như béo phì, thừa cân, rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp… Những rối loạn này làm tăng tình trạng lắng đọng mỡ tại gan gây ra tình trạng gan thoái hóa mỡ. Trong trường hợp nặng gây ra tình trạng hoại tử gan, viêm gan.
Khó khăn khi điều trị gan nhiễm mỡ tại Việt Nam
Thường người bệnh gan nhiễm mỡ hay phát hiện tình cờ qua đi khám sức khỏe, siêu âm, làm xét nghiệm máu sẽ thấy tình trạng rối loạn mỡ máu hoặc rối loạn đường máu kèm theo. Khi đó bác sĩ kiểm tra lại mọi yếu tố về di truyền, béo phì, rối loạn chuyển hóa.
Tuy nhiên, khi người bệnh có tình trạng mệt mỏi, vàng da, vàng mắt thì đã có tình trạng viêm gan rất rõ.
Bác sĩ Hằng cho hay, khó khăn khi điều trị gan nhiễm mỡ với Việt Nam chính là việc phân tầng nguy cơ và quản lý một cách toàn diện.
Với các bác sĩ tiêu hóa việc điều trị phải đánh giá 2 yếu tố: Một là mức độ nặng và tổn thương của gan và hai là mức độ liên quan đến yếu tố nguy cơ của bệnh lý chuyển hóa.
Với yếu tố đầu tiên, các bác sĩ có thể sử dụng xét nghiệm máu, đo xơ hóa gan, siêu âm… từ đó đánh giá mức độ tiến triển gan mãn tính và đánh giá yếu tố nguy cơ sau bao nhiêu năm có thể xơ gan, ung thư gan để tư vấn cho người bệnh.
Ở yếu tố thứ 2, để đánh giá toàn diện, bác sĩ phải phối hợp kiểm soát huyết áp, mỡ máu, các rối loạn chuyển hóa khác thì người bệnh mới đáp ứng tốt với điều trị.
Do đó, PGS, TS Đào Việt Hằng nhấn mạnh, với chế độ ăn uống sinh hoạt sử dụng nhiều dầu mỡ chiên xào, nhiều tinh bột hoặc chất mỡ có thể gây ra tình trạng bệnh lý này.
Với người đã mắc gan nhiễm mỡ bắt buộc phải thực hiện chế độ giảm cân, thay đổi chế độ ăn uống sinh hoạt.
"Người có bệnh lý gan nhiễm mỡ chỉ cần giảm 5-10% trọng lượng cơ thể sẽ giúp cải thiện tình trạng viêm gan, phục hồi mô bệnh học của gan", bác sĩ Hằng cho hay.
Hiện tại thuốc điều trị còn hạn chế, chủ yếu sử dụng các thuốc hạ men gan, hạ mỡ máu, hạ huyết áp. Riêng nhóm thuốc điều trị đích cho gan nhiễm mỡ hiện chưa có loại thuốc điều trị thật sự chứng minh được tính ưu việt.
Biện pháp kiểm soát cơ bản và quan trọng nhất dành cho người bị gan nhiễm mỡ liên quan đến các bệnh lý chuyển hóa là giảm cân thông qua sự kết hợp giữa việc tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ, xây dựng chế độ ăn uống và tập luyện hợp lý và khoa học.
Mỗi người cần phải có chế độ ăn uống sinh hoạt lành mạnh, hạn chế đồ chiên xào, tập thể dục thường xuyên (120-150 phút/tuần) mới giảm được cân nặng mong muốn. Đặc biệt lưu ý khi điều trị gan nhiễm mỡ cần tuyệt đối không uống rượu, bia để việc điều trị đạt hiệu quả.
Theo Nhân dân