Trong Đông y vỏ quít chín gọi là quất hồng bì, vỏ quít để lâu năm gọi là trần bì, vỏ quít xanh gọi là thanh bì, hạt quít gọi là quất hạch, xơ ở ngoài múi quít gọi là quất lạc, lá quít gọi quất diệp... Quả quít chín nấu với mật ong hoặc mật mía gọi là "quất bính", vỏ cây quít gọi là Quất thụ bì... đều là vị thuốc được dùng rất rộng trong Đông y.
Trong Đông y vỏ quít chín gọi là quất hồng bì, vỏ quít để lâu năm gọi là trần bì, vỏ quít xanh gọi là thanh bì, hạt quít gọi là quất hạch, xơ ở ngoài múi quít gọi là quất lạc, lá quít gọi quất diệp... Quả quít chín nấu với mật ong hoặc mật mía gọi là “quất bính”, vỏ cây quít gọi là Quất thụ bì... đều là vị thuốc được dùng rất rộng trong Đông y.
Quất hồng bì: vị cay đắng, tính ôn vào kinh tỳ, phế và vị (dạ dày) có tác dụng giáng khí kiện tỳ táo thấp, hóa đờm, trị chứng khí uất trong phế (phổi) nên ho nhiều đờm, tức ngực, do khí nghịch sinh chứng phản vị (trào ngược dạ dày), ăn uống kém, khí tích làm nước ứ đọng lại trong cơ thể sinh chứng phù thũng. Ngày dùng từ 6-12g phối hợp với các vị thuốc khác.
Bài thuốc “Quất hồng bì thang” điều trị chứng nôn ọe: Quất hồng bì, sinh khương lượng bằng nhau, sắc uống khi thuốc còn nóng, ngày uống 2 lần trước khi ăn.
Bài thuốc trị ho nhiều đờm, cơ thể suy nhược: Quất hồng bì 12g, nhân sâm 8g, xuyên bối mẫu 8g, cát cánh 12g, cam thảo 6g. Cách dùng: Ngày uống một thang sắc uống 2 lần trong ngày, uống trước khi ăn.
Thanh bì: Có mùi thơm vị đắng, cay tính ôn, vào các kinh: Can, đởm, tỳ vị. Có tác dụng sơ can, phá khí, tiêu tích hóa trệ. Dùng để điều trị các chứng như ngực sườn đau tức, bệnh sán khí (thoát vị bẹn), hạch ở vú, viêm vú, thức ăn tích lại trong dạ dày sinh ra chứng đầy chướng đau bụng. Ngày dùng từ 8-12g, phối hợp với một số vị thuốc khác để điều trị.
Bài thuốc trị chứng thực tích, đau bụng, bụng đầy trướng: Thanh bì 12g, sơn tra 8g, thần khúc 12g, mạch nha 12g, thảo quả 8g. Tán bột mịn, ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 10g pha với nước ấm.
Trần bì: Vỏ quít chín phơi khô gói vài mo cau, hoặc rơm, rạ, để lên giàn bếp sau 30 năm hoặc lâu hơn, có thể để 50-60 năm sử dụng càng tốt. Trần bì có vị đắng, cay, tính ôn vào phần khí của 2 kinh tỳ và phế. Có tác dụng: Điều lý ở phần khí, hóa đờm, táo thấp, hành trệ, làm mạnh tỳ vị giúp cho tiêu hóa tốt, tiêu hàn tích. Trị các chứng: ho nhiều đờm, tiêu chảy, nhiệt tích sinh chứng đái dắt, tích nước phù thũng, ngày dùng từ 6-12g.
Lá quít: Đông y gọi Quất diệp có vị cay, tính ôn, có mùi thơm đặc biệt, vào kinh can và vị, có tác dụng giáng khí thanh nhiệt phát tán. Bệnh nhân sốt cao, đau tức vùng ngực và mạng sườn. Trị mụn nhọt, là vị thuốc đặc biệt để trị chứng nhũ ung (viêm vú).
Quả quít chín nấu với mật ong hoặc mật mía Đông y gọi là “quất bính”. Có vị cay, ngọt tính ấm vào kinh phế, tỳ vị, can có tác dụng lý khí khoan trung, điều trị bệnh kết quả tốt hơn quất hồng bì.
Vỏ cây quít Đông y gọi là Quất thụ bì, cạo sạch vỏ đen ở ngoài lấy 200g ngâm với 1.000ml rượu trắng 30 độ trong 20 ngày, mỗi tối uống 20ml trước khi ăn. Trị chứng phong tê thấp tay chân đau nhức tê bại (Bài thuốc gia truyền của lương y Cự Nam đăng trong tạp chí Nho y năm 1946).