08:10, 26/10/2015

Phát hiện trẻ tự kỷ, cách nào?

Chứng tự kỷ (còn gọi là tự bế, tự tỏa) được nhà tâm thần học nổi tiếng Kanner mô tả lần đầu tiên vào năm 1943.

Chứng tự kỷ (còn gọi là tự bế, tự tỏa) được nhà tâm thần học nổi tiếng Kanner mô tả lần đầu tiên vào năm 1943. Trung bình cứ 100.000 trẻ em thì có 1 trẻ mắc bệnh này. Tỷ lệ mắc ở bé trai cao gấp 3-4 lần bé gái. Có thể chẩn đoán bệnh trong những tuần đầu sau sinh. Tuy nhiên, các dấu hiệu tự kỷ thường bộc lộ nhiều ở những tháng cuối của năm đầu tiên, rõ rệt hơn ở năm thứ 2-3. Theo thống kê mỗi năm Bệnh viện Nhi Trung ương tiếp nhận khoảng 6.000 trẻ bị nghi mắc bệnh tự kỷ đến khám và điều trị. Trên thực tế, số trẻ mắc tự kỷ rất lớn nhưng việc nhận biết triệu chứng bệnh tự kỉ ở trẻ để phát hiện sớm và chăm sóc trẻ còn chưa được quan tâm nhiều, các bà mẹ còn thiếu nhiều kiến thức về bệnh tự kỉ.
 
 
Nguyên nhân trẻ bị tự kỷ
 
 
Cho đến nay chưa có nghiên cứu nào tìm ra nguyên nhân gây bệnh tự kỷ. Có những yếu tố góp phần trong rối loạn tự kỷ như di truyền hoặc một số tổn thương não. Ngoài ra, ngạt khi sinh, sang chấn do can thiệp sản khoa, sinh non, vàng da, khuyết tật tâm thần, động kinh, người mẹ khi mang thai nhiễm virut, nhiễm độc... cũng là những yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh này. Ngoài ra trẻ được bao bọc quá kỹ lưỡng trong điều kiện vật chất dư thừa, nhưng không được giao tiếp với thế giới bên ngoài, không được hoạt động, tương tác với trẻ khác, cũng khiến hội chứng tự kỷ thêm trầm trọng.

 

Dậy trẻ tự kỷ để hòa nhập cộng đồng.
Dậy trẻ tự kỷ để hòa nhập cộng đồng.
 
 
Làm thế nào nhận biết sớm?
 
 
Khi thấy trẻ có những biểu hiện bất thường như: chậm nói, hoặc biết nói rồi ngừng hẳn, chỉ thích chơi một mình, không cười, không tiếp xúc bằng mắt với bố mẹ hay người đối diện, quá say mê một thứ đồ vật nào đó, có những hành vi lặp đi lặp lại, rất thích sắp xếp đồ vật theo thứ tự, ngăn nắp một cách kỳ lạ và có biểu hiện hung hăng khi thứ tự đó bị xáo trộn... Việc phát hiện sớm là rất quan trọng, vì phát hiện càng sớm thì việc can thiệp, khắc phục sẽ có kết quả cao hơn, trẻ càng có nhiều cơ hội hòa nhập với cộng đồng, tự lập trong cuộc sống. Trẻ từ 18 - 36 tháng tuổi nếu được phát hiện sớm và can thiệp điều trị đúng cách thì có khoảng 30% khả năng trẻ sẽ trở lại bình thường, có thể hòa nhập trở lại với cộng đồng. Quá độ tuổi này, việc can thiệp sẽ gặp khó khăn và mất nhiều thời gian hơn.
 
 
Phương pháp điều trị
 
 
Tùy theo sự biểu hiện của bệnh tự kỷ ở trẻ mà có cách điều trị khác nhau, hiện nay cách điều trị hữu hiệu nhất đối với trẻ mắc bệnh tự kỷ đó là liệu pháp điều trị bệnh bằng tâm lý. Cụ thể: thiết lập và giúp trẻ hướng tới sự phát triển tâm lý và nhân cách cá nhân theo đúng như tâm lý của trẻ bình thường; giúp trẻ tiếp xúc giao tiếp với người xung quanh, thiết lập mối quan hệ tình cảm với người thân trong gia đình như ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy cô; dạy trẻ nói chuyện, phát triển ngôn ngữ phù hợp với khả năng của trẻ; tập cho trẻ ý thức về bản thân và tự khẳng định bản thân. Ngoài ra, cần cung cấp cho trẻ đầy đủ dinh dưỡng, vitamin cần thiết (như vitamin A, vitamin C, vitamin B6 và magiê, acid folic, vitamin B12 và omega3...), bao gồm cả hạn chế của các chất gây dị ứng thực phẩm... để giảm được các chấn động ở hệ thống thần kinh. Kết hợp bổ sung các thuốc chống suy nhược và các thuốc bổ thần kinh giúp trẻ ổn định hơn tránh sự quá kích động tự làm tổn hại thần kinh.
 
 
Có phòng ngừa được bệnh tự kỷ?
 
 
Khi mang thai, các bà mẹ cần giữ gìn sức khỏe, kiêng rượu, thuốc lá để hạn chế nguy cơ nhiễm độc, đẻ non, đặc biệt tránh dùng nhiều mỹ phẩm (vì nhiều loại chứa chất thủy ngân - nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tự kỷ)... Sau khi trẻ ra đời, không nên tách trẻ khỏi mẹ quá sớm; cha mẹ nên dành nhiều thời gian chăm sóc, trò chuyện, chơi đùa với trẻ để giúp trẻ phát triển năng lực, tránh để trẻ bị chấn động về não, hoặc sang chấn tâm lý. Một thái độ ân cần, một ánh mắt cảm thông là liều thuốc giúp trẻ tự kỷ và cha mẹ đứng vững và tiếp tục bước trên con đường chông gai. Ngược lại, một lời nói hay một cử chỉ kỳ thị dù nhỏ, cũng đủ làm trẻ và cha mẹ trẻ rơi vào tuyệt vọng. Khi trẻ bị tự kỷ cần đưa trẻ đi khám để được tham vấn các phương pháp trị liệu giúp trẻ hòa nhập cộng đồng.
 
 

Theo CDC, ở Mỹ cứ 68 trẻ em thì một trẻ bị mắc chứng bệnh tự kỷ, tăng 30% so với tỷ lệ 1/88 của hai năm trước. Tỷ lệ bé trai mắc căn bệnh này cao gấp 5 lần so với bé gái, cụ thể là 1/42 trẻ em nam được chẩn đoán bị tự kỷ so với 1/189 trẻ em nữ. Ở Việt Nam, tuy chưa có số liệu chính thức về tỷ lệ mắc hội chứng tự kỷ nhưng theo Nghiên cứu mô hình tàn tật ở trẻ em của Khoa Phục hồi chức năng Bệnh viện Nhi Trung ương, giai đoạn 2000-2007 số lượng trẻ được chẩn đoán và điều trị tự kỉ ngày càng đông; trẻ tự kỉ đến khám năm 2007 tăng gấp 50 lần so với năm 2000; số trẻ tự kỉ đến điều trị năm 2007 tăng gấp 33 lần so với năm 2000. Xu thế mắc tự kỉ tăng nhanh từ 122% đến 268% trong giai đoạn 2004-2007 so với năm 2000. Cũng theo các thống kê từ Bệnh viện Nhi đồng I (TP. HCM), nếu năm 2000 bệnh viện chỉ điều trị cho 2 trẻ bị tự kỉ, thì sau 4 năm con số này đã là 170 trẻ, đến năm 2008 con số này tăng gấp 2 lần tức là 324 trẻ. Trong một dự án chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật của tổ chức NGO Plan, riêng một huyện ở Hà Nội, trong số 733 trẻ khuyết tật được phát hiện, thì có tới 221 trẻ chậm phát triển và trẻ tự kỉ chiếm 10% số trẻ chậm phát triển đó.

 
 
Theo Sức khỏe & Đời sống