Đại đoàn kết dân tộc luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Với cương vị là người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, trong nhiều bài viết, bài phát biểu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh đến vai trò to lớn của nhân dân và phát huy sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó bài viết "Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng" nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2024) của đồng chí Tổng Bí thư là một trong số những bài viết đó.
Bài viết của Tổng Bí thư gồm 3 phần chính: Phần thứ nhất: Đảng ta ra đời, lãnh đạo đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong phần này, Tổng Bí thư đã khái quát lại toàn bộ chặng đường lịch sử kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, tìm ra con đường Cách mạng vô sản, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến khi hoàn thành sứ mệnh thống nhất đất nước vào năm 1975.
Phần thứ hai: Đảng lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Tổng Bí thư đã tổng kết đánh giá toàn diện quá trình khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng đất nước từ năm 1975 đến nay, đặc biệt là những thành tựu to lớn, toàn diện mà đất nước ta đã đạt được sau gần 40 năm đổi mới.
Phần thứ ba: Phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước và cách mạng vẻ vang, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025 và năm 2030, xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu, kết quả đạt được và cả những khó khăn, thách thức đang đặt ra, tóm lược những quan điểm nhất quán của Đảng ta từ trước đến nay, bài viết đã rút ra những bài học kinh nghiệm và nêu ra một số giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới để đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc; đồng thời khích lệ, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Trang bìa cuốn sách điện tử “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: nhandan.vn |
Bài viết của Tổng Bí thư đã lý giải, phân tích sâu sắc và làm nổi bật những thành tựu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong 94 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là bài viết rất tâm huyết, khoa học, sâu sắc của Tổng Bí thư, thể hiện tầm cao trí tuệ, tư duy lý luận sắc bén, sâu rộng của người đứng đầu Đảng. Trong toàn bộ bài viết, thông điệp được Tổng Bí thư đặc biệt nhấn mạnh là mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, quan điểm lấy dân là gốc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để xây dựng và phát triển đất nước.
Trong bài viết, cụm từ “nhân dân” được Tổng Bí thư nhắc tới hơn 60 lần, cho thấy vị trí, vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt chặng đường 94 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng như định hướng lãnh đạo đất nước trong thời gian tới, giá trị cốt lõi, tư tưởng chủ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là dựa vào dân, lấy “dân là gốc”. Mục đích, lý tưởng của Đảng là vì độc lập, tự do của dân tộc, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng phải luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân là mục tiêu phấn đấu, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Kể từ ngày Đảng thành lập đến nay, trong mỗi giai đoạn của lịch sử dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được khơi dậy mạnh mẽ, làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế.
Yếu tố làm nên tất cả những thắng lợi vĩ đại đó, theo Tổng Bí thư đó là nhờ có sự đoàn kết của toàn dân, sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, Đảng được nhân dân đồng tình, ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối. Tổng Bí thư chỉ rõ: Sau khi ra đời, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối; chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945), để đến năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “long trời, lở đất”, thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, cách mạng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách; cùng một lúc phải đương đầu với "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm". Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", kiên cường bảo vệ và xây dựng chính quyền non trẻ, đồng thời tích cực chuẩn bị về mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên cơ sở đường lối kháng chiến "toàn dân", "toàn diện", "trường kỳ", "dựa vào sức mình là chính", phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Geneve (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Từ năm 1955 đến năm 1975, đất nước ta lại bị chia cắt làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc vừa nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa dốc sức làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", "không có gì quý hơn độc lập, tự do"; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối vào ngày 30/4/1975”.
Sau năm 1975, “dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta vừa tập trung khôi phục kinh tế - xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất nước”.
Nhìn lại chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc, Tổng Bí thư khẳng định: Chúng ta rất đỗi tự hào, tin tưởng và biết ơn sâu sắc Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại đã luôn luôn sáng suốt lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi vang dội này đến thắng lợi vang dội khác, viết tiếp vào lịch sử của Dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng những trang vàng chói lọi, được thế giới ngưỡng mộ, đánh giá cao”. Đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, muôn triệu người như một, quyết chí, đồng lòng đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự tham gia tích cực, không quản hy sinh, gian khổ, không chịu khuất phục trước bất cứ thế lực xâm lược nào của nhân dân bắt nguồn từ truyền thống quý báu được hun đúc từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, đến thời hiện đại trở thành niềm tin to lớn của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sau khi lãnh đạo nhân dân hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đất nước đã hòa bình, trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước khởi đầu từ Đại hội VI (1986). Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự đồng lòng, phấn đấu, nỗ lực của nhân dân, đất nước ta đã đạt được những thành quả lớn lao như bài viết của Tổng Bí thư đã tổng kết: Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, thực sự đem lại những thay đổi lớn lao, rất tốt đẹp cho đất nước trong gần 40 năm qua. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã hun đúc nên những truyền thống quý báu của Đảng, trong đó có truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân.
Những phân tích, tổng kết của Tổng Bí thư cho thấy mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, niềm tin và sự ủng hộ to lớn của nhân dân chính là nguồn sống của Đảng, nhân dân chính là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp cách mạng. Chính sự gắn bó bền chặt giữa Đảng với nhân dân, sự đồng tình, ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối của nhân dân đối với Đảng đã tạo nên sức mạnh vô địch để Đảng ta hoàn thành những mục tiêu to lớn của sự nghiệp cách mạng, để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc. Nhìn lại chặng đường 94 năm qua, Tổng Bí thư nhấn mạnh: Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại! nhân dân ta thật là anh hùng! Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thuận lợi, nước ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, để phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025 và năm 2030, Tổng Bí thư nhấn mạnh: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Những thông điệp trong bài viết của Tổng Bí thư không chỉ tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, mà còn đặt ra trách nhiệm cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, đoàn kết xây dựng đất nước giàu đẹp và phồn vinh. Bài viết đã góp phần quan trọng trong giáo dục truyền thống yêu nước, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, khát vọng vươn lên, rèn luyện ý chí tự lực, tự cường, noi gương truyền thống anh hùng của cha ông ta để tiếp tục viết lên những trang sử vàng, góp sức xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Nội dung và thông điệp trong bài viết là lời hiệu triệu, định hướng, thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, tập trung trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng. Đồng thời bài viết cũng là cơ sở để đảng bộ các cấp xây dựng dự thảo văn kiện cho đại hội sắp tới.
Đối với Khánh Hòa, bài viết của Tổng Bí thư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực tiễn xây dựng và phát triển của tỉnh giai đoạn hiện nay cũng như định hướng trong thời gian tới. Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 28/01/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra mục tiêu “Đến năm 2030 Khánh Hòa là thành phố trực thuộc Trung ương”. Đến năm 2045, “Khánh Hòa là đô thị thông minh, bền vững, bản sắc, ngang tầm khu vực Châu Á”, “là thành phố đáng sống, nơi nhân dân có mức sống cao, hiền hòa và hạnh phúc; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển đảo được bảo đảm vững chắc”.
Để hiện thực hóa mục tiêu nêu trên, trong thời gian tới, Khánh Hòa cần quan tâm thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự phát triển của đất nước, của địa phương.
Trước hết, cần phổ biến, quán triệt nội dung của bài viết đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thấy được giá trị, ý nghĩa của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, xây dựng và phát triển tỉnh Khánh Hòa nói riêng, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua việc phổ biến, tuyên truyền để nhân dân thấy được vai trò, sức mạnh to lớn của tinh thần đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm, chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng tỉnh Khánh Hòa ngày càng giàu mạnh, bản sắc.
Việc tuyên truyền, quán triệt cần được thực hiện thường xuyên, thông qua nhiều hình thức, phương pháp, phù hợp với từng đối tượng, để cán bộ, đảng viên và nhân dân thống nhất trong nhận thức và hành động, nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với đất nước, địa phương, thực hiện tốt những nội dung cốt lõi mang tính nguyên tắc, tính quy luật mà bài viết của Tổng Bí thư đã chỉ ra. Từ đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hai là, phát huy dân chủ, thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hài hòa lợi ích của các tầng lớp nhân dân.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội từ tỉnh đến cơ sở phải luôn quán triệt quan điểm “ lấy dân là gốc”, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Phát huy vai trò tích cực của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong từng hoạt động, từng lĩnh vực. Phát huy dân chủ phải đi đôi với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật; xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội, hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
Bện cạnh phát huy dân chủ, tỉnh cần bảo đảm hài hòa lợi ích của các tầng lớp nhân dân. Thực tiễn đã chứng minh sức mạnh của nhân dân là sức mạnh to lớn nhất. Do đó, để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đã đề ra, tỉnh cần huy động được mọi nguồn lực và trí tuệ của nhân dân trong tỉnh, kết hợp với nguồn lực bên ngoài, trong đó nguồn lực nội sinh đóng vai trò quyết định. Muốn huy động được sức mạnh của các tầng lớp nhân dân đóng góp cho sự phát triển của tỉnh thì các vấn đề xã hội, như lao động, việc làm, y tế, giáo dục, việc thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội, các chính sách an sinh xã hội ... phải được quan tâm giải quyết tốt, bảo đảm hài hòa lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, cả về vật chất và tinh thần, tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển của tỉnh. Giải quyết tốt những vấn đề trên sẽ tạo cơ sở vững chắc để tập hợp, quy tụ, phát huy sức mạnh của nhân dân.
Ba là, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và hiệu quả của các phong trào thi đua yêu nước.
Cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các đoàn thể, bảo đảm cho mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là trung tâm tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Các hoạt động cần hướng về cơ sở, nhất là những địa phương còn nhiều khó khăn của tỉnh; chú trọng bồi dưỡng và hướng dẫn người có uy tín trong cộng đồng tham gia đóng góp cho các phong trào chung; phát huy những mặt tốt của các hình thức cộng đồng truyền thống, như làng, bản, dòng họ, gia đình; kịp thời uốn nắn những biểu hiện cục bộ, lệch lạc. Đồng thời, có cơ chế, chính sách phù hợp để các đoàn thể nhân dân phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; tích cực tham gia xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường vai trò giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước góp phần xây dựng và bảo vệ tổ chức đảng và chính quyền trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, bảo đảm thiết thực, sát với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ từng cấp, ngành, địa phương, đơn vị và nhu cầu của nhân dân; qua đó, tạo thành phong trào sâu rộng, thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.
Bốn là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong thời kỳ mới, cấp ủy đảng các cấp trong tỉnh cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, quy định của Trung ương, của Đảng bộ tỉnh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị, địa phương trong thực hiện nhiệm vụ, đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, tôn trọng nhân dân, tất cả vì lợi ích của nhân dân./.
THẠC SĨ LÊ HUY TUẤN
Phó Trưởng khoa Xây dựng Đảng
Trường Chính trị tỉnh Khánh Hòa
* Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 453.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 179, tr. 335.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 103, tr.104, tr.110, tr.112.
4. Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 28-1-2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin