00:32, 30/04/2025

Niềm tin thống nhất!

THÀNH NGUYỄN

Những ngày này, cả nước rộn ràng kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2025). Những khúc hoan ca reo vui lại vang lên khắp nẻo, trong tôi lại nhớ về những khúc ca của 21 năm đất nước bị chia cắt hai miền Nam - Bắc kể từ sau Hiệp định Genève 1954 với nỗi khát khao hy vọng về ngày đoàn viên… Và trên hết là những tấm gương về những gia đình kiên trung với cách mạng, trong gian khó vẫn bền bỉ đấu tranh với niềm tin đất nước sẽ thống nhất, gia đình đoàn viên sum họp!

1. Trong niềm vui ngày hội non sông, ông Lê Xuân Hạnh - nguyên Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Khánh Hòa càng nhớ về những năm tháng đấu tranh gian khổ để đất nước được thống nhất, gia đình được đoàn viên. Ông Hạnh kể: “Ba má tôi tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp từ rất sớm. Năm 1954, sau hiệp định Genève, ba tôi tập kết ra Bắc, má tôi được tổ chức phân công ở lại tiếp tục hoạt động ở Khánh Hòa. Những tưởng sau 2 năm sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước, gia đình sẽ được đoàn viên, nào ngờ phải trải qua bao gian khổ, hy sinh của cả dân tộc mới có được niềm vui ấy”.

Bí thư Tỉnh ủy Nghiêm Xuân Thành thăm Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Liên nhân 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Bí thư Tỉnh ủy Nghiêm Xuân Thành thăm Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Liên nhân 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, những gia đình có người thân đi tập kết ở miền Bắc bị địch o ép, gây khó dễ. “Trong hoàn cảnh đó, má tôi vẫn tham gia công tác. Má tôi luôn vững tin rằng, miền Nam rồi sẽ được giải phóng, đất nước sẽ có ngày thống nhất. Niềm tin đó cứ thấm dần vào tôi”, ông Hạnh tâm sự. Năm 1965, ở tuổi 15, ông Hạnh đã “nhảy núi” làm cách mạng, tiếp bước con đường ba ông đã đi. “Sau khi phong trào Đồng Khởi ở Diên Khánh bị đàn áp, địch lùng bắt những người theo cách mạng. Tôi và má quyết định lên chiến khu Hòn Dù, gửi người em trai cho cô ruột của tôi nuôi ăn học. Đó là lần thứ hai má tôi lên chiến khu, sau lần đầu cùng ba tôi đi lên chiến khu năm 1949”, ông Hạnh hồi tưởng.

Năm 1971, sau khi trực tiếp nổ súng diệt tên ác ôn khét tiếng ở Diên Lâm, tổ công tác 3 người của ông Hạnh gặp phải quân địch. “Chiến đấu chống trả rất quyết liệt, tôi bị thương ở chân, ngực và đầu rồi bị ngất đi nên bị địch bắt”, ông Hạnh nhớ lại. Địch đưa ông Hạnh về Nha Trang đánh đập, tra khảo rất dã man nhưng ông vẫn cắn răng chịu đựng. Tra khảo gần 1 tháng trời, không moi được thông tin gì nên địch đành đưa ông lên giam giữ ở Pleiku, Gia Lai, sau đó đưa ra tù ở Phú Quốc ngay trong năm 1971. “Trong tù, chúng tôi tiếp tục sinh hoạt đảng, tổ chức kết nạp đảng viên, dạy học cho nhau, tổ chức đấu tranh không tham gia xây dựng hàng rào nhà tù và xây lô cốt, không giặt đồ cho các cai tù. Nhiều trận đấu tranh, chúng tôi bị địch đánh đập dã man… nhưng tất cả đều không khai”, ông Hạnh nhớ lại.

Ông Lê Xuân Hạnh bên những tấm ảnh kỷ vật của gia đình 
về một thời phân chia 2 miền Nam - Bắc. 
Ông Lê Xuân Hạnh bên những tấm ảnh kỷ vật của gia đình về một thời phân chia 2 miền Nam - Bắc. 

Năm 1973, sau khi hiệp định Paris được ký kết, ông Hạnh được trao trả ở bờ sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Qua trò chuyện, một người bác sĩ đồng hương đã nhận ra ông và báo tin cho ba ông ở miền Bắc là “con trai anh còn sống”. Trước đó, khi ông bị bắt, gia đình ở miền Nam tưởng ông đã hy sinh nên đã báo tin ra miền Bắc. Mấy tháng sau, khi đang an dưỡng ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, ông Hạnh đã được gặp lại người cha thân yêu của mình sau gần 20 năm xa cách. Nhưng ngày đoàn tụ gia đình phải đến sau đó 2 năm, khi đất nước được thống nhất. “Mùa xuân 1975, ba tôi từ miền Bắc vào tham gia tiếp quản (công tác trong ngành xăng dầu của Khánh Hòa). Má tôi từ chiến khu cũng trở về. Em trai tôi đang học Y khoa ở Sài Gòn cũng về Nha Trang. Đầu tháng 5-1975, tôi từ Thanh Hóa chuyển về công tác ở Khánh Hòa. Gia đình tôi chính thức đoàn tụ sau 21 năm trời đằng đẵng xa cách. Đất nước thống nhất, gia đình được sum họp hạnh phúc như tên gọi của hai anh em chúng tôi (Hạnh - Phúc)”, ông Hạnh xúc động bày tỏ.

2. Cũng giống như gia đình ông Hạnh, gia đình ông Nguyễn Hùng Việt (14 Phan Chu Trinh, TP. Nha Trang) cũng từng ở trong tình cảnh chia đôi hai miền Nam - Bắc. Quê ở Đức Chánh (huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi), gia đình ông Việt có 3 thế hệ tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. “Ông nội tôi có 6 người con đều đi theo cách mạng. Sau Hiệp định Genève, ba tôi cùng các cô chú tập kết ra Bắc. Ông nội, má tôi cùng chúng tôi ở lại quê nhà. Như một lẽ tự nhiên, chúng tôi lớn lên cũng đi theo cách mạng. Ai cũng muốn góp sức mình để cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, gia đình sớm được đoàn viên”, ông Việt tâm sự.

Ông Nguyễn Hùng Việt trò chuyện với người thân 
về truyền thống cách mạng của gia đình. 
Ông Nguyễn Hùng Việt trò chuyện với người thân về truyền thống cách mạng của gia đình. 

Ở tuổi 102, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Liên (mẹ ông Việt) vẫn nhớ rõ về những năm tháng chồng tập kết ra Bắc, bà ở lại quê nhà nuôi 3 con nhỏ. Sống dưới chế độ Mỹ ngụy, bị địch o ép đủ điều nhưng bà vẫn giữ niềm tin theo Đảng, Bác Hồ. Căn nhà nhỏ của bà trở thành cơ sở nuôi giấu cán bộ. Các con lớn lên, bà Liên đều cho đi theo cách mạng. “Tôi biết con mình đi làm cách mạng là gặp hiểm nguy, có thể hy sinh. Nhưng nước nhà đang bị chia cắt, mình đâu thể chỉ nghĩ đến gia đình mình”, bà Liên tâm sự.

Sau cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1968, địch càn quét trở lại, người con gái đầu của bà Liên khi ấy là cán bộ binh vận của tỉnh Quảng Ngãi đã bị địch bắn chết ngay tại vườn nhà. Bản thân bà Liên bị địch bắt tra tấn vì nuôi giấu cán bộ cách mạng. “Chúng hỏi tôi làm gì cho cộng sản. Tôi chỉ nói mình là người dân làm ruộng, không biết cộng sản là gì. Chúng đánh rất nhiều nhưng tôi nhất quyết không khai… Rồi địch bảo tôi chuyển vào sinh sống ở vùng chúng kiểm soát, tôi nói về dưới đó không biết làm gì để ăn, kiên quyết không đi”, bà Liên rành rọt kể.

Tiếp nối câu chuyện, ông Việt cho biết, gia đình ông có hai chị gái là liệt sĩ, bản thân ông 3 lần bị thương nhưng chưa bao giờ mất đi lý tưởng. Nếu được lựa chọn một lần nữa, gia đình ông vẫn lựa chọn đi theo cách mạng. “Không thể có hạnh phúc vẹn toàn nếu nước nhà còn bị chia cắt hai miền. Chính vì vậy, thế hệ chúng tôi không tiếc sức mình để chiến đấu cho nước nhà thống nhất. Chúng tôi luôn tin rằng đất nước rồi sẽ thống nhất… Và điều đó đã thành sự thật vào mùa xuân lịch sử năm 1975”, ông Việt bày tỏ.

3. Khắp tỉnh Khánh Hòa cũng như trên đất nước Việt Nam, những tấm gương hy sinh vì nước như gia đình ông Hạnh, ông Việt nhiều không kể xiết. Trong những năm qua, chúng tôi đã gặp biết bao tấm gương anh dũng đã một lòng kiên trung với Đảng, bền gan chiến đấu cho nước nhà được thống nhất. Đó là gia đình ông Lê Văn Thành (xã Diên Sơn, huyện Diên Khánh) với 4 liệt sĩ hy sinh vì nước. Con trai của ông bị bắt đi quân dịch chế độ Việt Nam Cộng hòa đã mưu trí, tìm cách trốn thoát về với cách mạng bởi truyền thống của gia đình là “theo Đảng, theo Bác Hồ…”. Đó là ông Trần Hiệp (sinh năm 1949, quê ở xã Diên Sơn, huyện Diên Khánh) mới 15 tuổi đã “nhảy núi” tham gia lực lượng quân sự của tỉnh. Khi bị địch bắt, tra tấn rất tàn bạo, hết nhà lao ở Nha Trang, khám Chí Hòa đến nhà tù Côn Đảo ông đều giữ vững khí tiết cách mạng. Ở nhà tù Côn Đảo, ông Hiệp đã từng rạch bụng tự vẫn đòi kẻ địch phải thực thi các yêu sách của các chiến sĩ cách mạng đang bị tù đày.

Tôi cũng không quên được tấm gương của những người phụ nữ kiên trung như bà Huỳnh Thị Tám (sinh năm 1947, quê ở Ninh Hòa, hiện ở số nhà 85A đường Bạch Đằng, phường Tân Tiến, TP. Nha Trang) bị địch đày ải Trại giam Phú Tài (tỉnh Bình Định), trại tù Cần Thơ nhưng vẫn một lòng tranh đấu không tham gia học tố cộng, không chào cờ địch, không làm tạp vụ cho cai tù. Ngày được trao trả ở Lộc Ninh (Bình Phước), bà Tám chuẩn bị sẵn lá cờ Đảng trong người, khi xuống sân bay, bà đã rút lá cờ vẫy chào, lòng tràn ngập niềm vui vì được trở về với cách mạng. Và tôi cũng không quên tấm gương bà Nguyễn Thị Hạnh - người đích thân mang thuốc nổ đi phá kho súng của địch ở chùa Hoa Tiên (cạnh cầu Thành - Diên Khánh). Hai lần bị địch bắt, chịu những ngón đòn tra tấn nặng nề nhưng vẫn giữ vững khí tiết của đảng viên… Điều gì đã tạo nên sức mạnh để những người cán bộ, đảng viên kiên trung ấy vượt qua khó khăn gian khổ, đòn roi của kẻ thù? Tất cả đều trả lời đó là “niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ”, niềm tin cuộc chiến đấu dù gian khổ nhưng nhất định sẽ thắng lợi, đất nước rồi sẽ thống nhất. Vâng, chính niềm tin đó tạo nên sức mạnh vô biên, giúp quân và dân ta đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác mà đỉnh cao là đại thắng mùa xuân năm 1975 thống nhất nước nhà!

THÀNH NGUYỄN