Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần này quy định nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Quan điểm này phù hợp với lợi ích và đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân, nhất là những người có đất bị thu hồi; ....
Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần này quy định nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Quan điểm này phù hợp với lợi ích và đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân, nhất là những người có đất bị thu hồi; bám sát tinh thần Nghị quyết số 18 ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao; giúp thể chế hóa các quy định nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi, nhưng cần cụ thể hóa các tiêu chí thế nào là “tốt hơn nơi ở cũ”.
Hiện nay, quy định về căn cứ xác định giá đất bồi thường tại Luật Đất đai năm 2013 chưa đầy đủ; giá đất được xác định dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai. Với những căn cứ này, việc xác định giá đất mới chỉ đáp ứng sự phù hợp vào chính thời điểm bị thu hồi mà chưa giải quyết được sự cân bằng về mặt lợi ích giữa các bên. Trên thực tế, nhiều trường hợp thu hồi đất của người sử dụng đất là đất nông nghiệp, sau đó bàn giao cho các chủ đầu tư chuyển thành đất phi nông nghiệp. Mức chênh lệch giữa giá đất nông nghiệp với giá đất phi nông nghiệp là rất lớn. Vì vậy, dự thảo cần bổ sung quy định về căn cứ xác định giá đất. Cụ thể, trong trường hợp sử dụng để tính kinh phí bồi thường cho người sử dụng đất theo hướng dựa trên mức giá trung bình của hai loại giá đất trước và sau khi bị thu hồi đất. Điều này sẽ khắc phục được thực trạng vấn đề người dân bị thu hồi đất nông nghiệp bị trả với mức giá quá thấp, sau đó đất bàn giao lại cho chủ đầu tư chuyển mục đích thành đất thương mại, dịch vụ tăng giá trị gấp nhiều lần.
Tại khoản 4, Điều 74 dự thảo về tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có quy định: “... sau 3 năm kể từ ngày phê duyệt và được tiếp tục cập nhật vào kế hoạch sử dụng đất của năm tiếp theo mà chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh hoặc hủy bỏ…”. Nhưng trên thực tế có rất nhiều dự án chậm tiến độ không phải do lỗi của chủ đầu tư mà do công tác giải phóng mặt bằng của địa phương. Nếu quy định cứng thời hạn như vậy thì sẽ gây thiệt hại cho nhà đầu tư khi họ không có lỗi. Vì vậy, cần bổ sung: Nếu việc chậm ra quyết định thu hồi đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất không do lỗi của chủ đầu tư thì có thể gia hạn thời gian điều chỉnh hoặc hủy bỏ.
THÁI THỊNH (Lược ghi)