11:12, 16/12/2012

40 năm chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" (12-1972 - 12-2012)

Phần thứ nhất

                    Cuộc tập kích đường không chiến lược của Đế Quốc Mỹ tháng 12-1972

 1. Lý do Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972

 Mỹ tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972 bởi các lý do sau đây:

Một là, để cứu vãn tình thế cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.

Phần thứ nhất

Cuộc tập kích đường không chiến lược của Đế Quốc Mỹ tháng 12-1972

1. Lý do Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972

 Mỹ tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972 bởi các lý do sau đây:

Một là, để cứu vãn tình thế cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.

- Cuối năm 1964 đầu năm 1965, Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn, để cứu vãn tình thế, Mỹ đã quyết định thay đổi chiến lược, gấp rút đưa quân viễn chinh vào chiến trường miền Nam, sử dụng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc lần thứ nhất. Bị thất bại trên cả 2 miền Nam, Bắc, từ ngày 31-3-1968 Mỹ buộc phải thực hiện ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào; ngày 1-11-1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố, chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thông qua cách đánh B-52. Ảnh: QĐND

- Năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã bước vào giai đoạn quyết định. Ở miền Nam, bằng cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè năm 1972, quân và dân ta đã giành thắng lợi lớn, cơ bản giải phóng tỉnh Quảng Trị... đẩy chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ đến bờ vực sụp đổ hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, ngày 6-4-1972, Tổng thống Mỹ Ních-xơn huy động lực lượng lớn không quân và hải quân Mỹ ở khu vực Đông Nam Á tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc với quy mô lớn hơn, tính chất ác liệt, tàn bạo hơn nhiều so với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.

Hai là, trước thất bại nặng nề, đế quốc Mỹ buộc phải tìm cách thoát ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam

- Đầu tháng 10-1972, ở miền Nam quân và dân ta tiếp tục giành được thắng lợi lớn. Mỹ vừa phải tiếp tục triệt thoái các đơn vị bộ binh vừa phải “Mỹ hóa” trở lại bằng không quân và hải quân để ngăn chặn cuộc tiến công của ta. Tình hình đó đã tác động sâu sắc đến kinh tế, chính trị, xã hội của nước Mỹ; đặc biệt, cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ đã đến gần, sức ép trong nội bộ nước Mỹ đã tác động mạnh mẽ đến đường lối của Tổng thống Ních-xơn. Nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới kịch liệt lên án và đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Trước thực trạng này, Nhà Trắng buộc phải tìm cách thoát ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam.

Trước các sức ép đó, tại Pari, trong 3 ngày 8, 9, 10-10-1972, cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kít-xinh-giơ tiến hành phiên họp kín thứ 19 và phái đoàn ta đưa ra Dự thảo Hiệp định “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Phía Mỹ đã chấp nhận bản Hiệp định này.

- Ngày 12-10-1972 Ních-xơn và Kít-xinh-giơ đã tung tin lừa bịp dư luận rằng, “hòa bình đã ở trong tầm tay”, “chiến tranh sắp vãn hồi” để lôi kéo tranh thủ cử tri Mỹ trong bầu cử.

- Ngày 22-10-1972, Ních-xơn tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Song, với bản chất cực kỳ phản động và ngoan cố, ngày 23-10, Ních-xơn đột nhiên gửi công hàm cho Chính phủ ta đề nghị tạm hoãn việc ký kết vì có “trục trặc” từ phía chính quyền Thiệu. (Thực chất là nhằm tranh thủ thời gian giúp Quân đội Sài Gòn giành dân, lấn đất để cải thiện thế đứng chân, viện trợ ồ ạt vũ khí, chuẩn bị cho Quân đội Sài Gòn đi vào giải pháp chính trị trên thế mạnh. Một mặt Mỹ tập trung ngăn chặn nguồn chi viện của ta từ miền Bắc vào miền Nam, mặt khác chuẩn bị một đòn mạnh hòng gây sức ép buộc ta phải nhân nhượng cho Mỹ sửa đổi các điều khoản của Hiệp định đã thảo luận).

- Từ ngày 23-10-1972, không quân Mỹ đã tập trung lực lượng đánh phá ác liệt các tuyến giao thông từ nam vĩ tuyến 20 trở vào. Ở miền Nam, Mỹ thúc ép quân đội Sài Gòn mở các cuộc phản kích hòng chiếm lại các vùng ta vừa giải phóng. Chúng còn ngang ngược tiến hành các chuyến bay trinh sát ra phía Bắc vĩ tuyến 20 nhằm khẩn trương chuẩn bị cho âm mưu đen tối mới.

Ba là, Mỹ lật lọng, buộc ta phải khuất phục và chấp nhận những điều kiện mà chúng đưa ra ở Hội nghị Pa-ri.

- Ngày 7-11-1972, Nich-xơn được tái cử Tổng thống nhiệm kỳ lần thứ hai. Sau khi thắng cử, ông ta ra lệnh bí mật chuẩn bị một kế hoạch tập kích đường không chiến lược bằng B-52 đánh vào Hà nội, Hải Phòng và một số mục tiêu quan trọng trên miền Bắc. Cuộc tập kích chiến lược này mang tên “Lai-nơ-bếch-cơ II” (tạm dịch là “Tiền vệ” hay “Cứu bóng trước khung thành”) nhằm đánh hủy diệt, làm tê liệt ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta, buộc ta phải khuất phục và chấp nhận những điều kiện mà chúng đưa ra ở Hội nghị Pa-ri.

- Sau một thời gian họp đi, họp lại, Mỹ cố tình lật lọng, đòi ta phải sửa đổi những điều rất cơ bản trong Hiệp định nhưng đều bị bác bỏ.

- Ngày 13-12-1972 theo lệnh của Ních-xơn, Kít-xinh-giơ tuyên bố bỏ họp vô thời hạn.

- Ngày 14-12-1972, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đã họp và quyết định tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược với quy mô hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng và các mục tiêu quan trọng trên miền Bắc.

- Ngày 18-12, Nhà Trắng gửi Công hàm cho Chính phủ ta đề nghị họp lại Hội nghị Pa-ri vào bất cứ lúc nào kể từ ngày 26-12, nhằm đánh lừa ta, đồng thời hy vọng chỉ sau vài ngày dùng B.52 hủy diệt Hà Nội, buộc ta phải chấp thuận theo điều kiện của Mỹ.

2. Âm mưu và lực lượng của Mỹ trong cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972

a. Âm mưu của Mỹ trong cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972.

- Thứ nhất, Mỹ hăm dọa sẽ phá vỡ Hiệp định Pari.

+ Ngày 8-10-1972 ta và Mỹ đã thỏa thuận cơ bản về nội dung của Hiệp định “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” do ta dự thảo với một lịch trình rất rõ ràng và đến ngày 27-10-1972 hai bên sẽ ngừng bắn trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

+ Ngày 20-10, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận được thư của Tổng thống Ních-xơn khẳng định: “Hiệp định coi như đã hoàn tất, hãy tin vào chúng tôi là có thể ký kết được Hiệp định như thời gian biểu đã thỏa thuận”.

+ Nhưng, sau khi Ních-xơn thắng cử Tổng thống Mỹ, Kit-xinh-giơ đã quay ngoắt 180o đối với Hiệp định Pa-ri. Phía Mỹ đòi ta phải sửa một số điều trong những điều hai bên đã thỏa thuận của Hiệp định, đòi miền Bắc cùng rút quân, đòi miền Nam là một quốc gia riêng.

Ngày 24-11, Kit-xinh-giơ hăm dọa: “Nếu các ông không tỏ ra biết điều Tổng thống chúng tôi sẽ ra lệnh đàm phán và tiếp tục các hành động quân sự mà hậu quả khó lường”.

Ngày 6-12, Kit-xinh-giơ lại dọa dẵm: “Nếu cuộc thương lượng bị tan vỡ thì chiến tranh sẽ tiếp diễn với cường độ mạnh hơn. Đến lúc đó cuộc chiến tranh sẽ thay đổi tính chất. Mỹ sẽ không bàn bạc về Hiệp định này nữa”.

Ngày 7-12, Ních-xơn điện cho Kit-xinh-giơ: “Chúng ta sẽ ném bom dữ dội Bắc Việt. Nhưng sẽ không thông báo cho công chúng biết trước” Hội nghị Pa-ri bị phá vỡ.

- Thứ hai, đánh phá hủy diệt tiềm lực kinh tế, quốc phòng của miền Bắc, hạn chế sự chi viện cho cách mạng miền Nam, làm giảm thế và lực của ta so với quân đội và chính quyền Sài Gòn.

- Thứ ba, đe dọa phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới.

Có một thực tế, khi đế quốc Mỹ tuyên bố sẽ dùng B.52 tiến hành cuộc tập kích chiến lược đường không đối với Thủ đô Hà Nội, TP. Hải Phòng và một số mục tiêu quan trọng khác trên miền Bắc, thì một số nước trên thế giới đã khuyên ta nên chấp nhận những điều kiện mà Mỹ nếu ra.

b. Lực lượng của Mỹ trong cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972.

- Mỹ đã huy động lực lượng:

+ Máy bay B.52: 193 chiếc trên tổng số 400 chiếc.

+ Không quân chiến thuật: 1.077 chiếc trên tổng số 3.043 chiếc.

+ Tàu sân bay: 6 chiếc trên tổng số 24 chiếc

+ Hơn 50 máy bay tiếp dầu trên không và một số máy bay gây nhiễu từ xa, máy bay trinh sát chiến lược, chiến thuật, máy bay chỉ huy, liên lạc dẫn đường, cấp cứu, cùng 60 tàu chiến các loại của Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương.

- Căn cứ xuất phát của các loại máy bay Mỹ:

+ Máy bay chiến lược B.52 cất cánh từ căn cứ Enđơxơn trên đảo Guam và Utapao ở Thái Lan;

+ Máy bay chiến thuật các loại cất cánh từ 6 sân bay ở Thái Lan và từ 6 tàu sân bay đậu rải rác trên biển Đông.

+ Ngoài ra, tất cả các căn cứ hậu cần, kỹ thuật của quân đội Mỹ ở Đông Nam Á như căn cứ Cờ-lác, Su-bích ở Philippin, kể cả căn cứ Okinaoa ở Nhật Bản đều được sử dụng để phục vụ tối đa cho cuộc tập kích đường không chiến lược này.

+ Lầu Năm Góc đã cấp tốc thành lập Bộ Chỉ huy lâm thời, đóng ở Utapao, do tướng Joshn-vốt làm Tư lệnh. Bộ chỉ huy này đặt dưới quyền chỉ huy của không quân chiến lược và Bộ Quốc phòng Mỹ.

Có thể nói, đây là một cuộc huy động lực lượng lớn chưa từng có của Mỹ từ sau đại chiến thế giới lần thứ 2 (tính đến tháng 12-1972) cho một cuộc tập kích đường không chiến lược.

3. Sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bác Hồ và Quân ủy Trung ương chống lại cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972 của đế quốc Mỹ.

a. Chủ động nắm tình hình địch và nghiên cứu, chuẩn bị cách đánh.

- Năm 1962, khi Đại tá Phùng Thế Tài vừa được bổ nhiệm làm Tư lệnh Phòng không, Bác Hồ đã gọi ông lên và hỏi: “Bây giờ chú là Tư lệnh Phòng không, vậy chú đã biết gì về B.52 chưa”?, và Bác nói tiếp: “Nói thế thôi, chú có biết lúc này cũng chưa làm gì được nó. Nó bay trên cao mười cây số mà trong tay chú hiện nay chỉ mới có cao xạ thôi. Nhưng ngay từ nay, là Tư lệnh Phòng không, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến thằng B.52 này”.

- Ngày 18-6-1965, lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh, đế quốc Mỹ sử dụng máy bay chiến lược B.52 ném bom rải thảm khu vực Bến Cát (tây bắc Sài Gòn). Ngay sau đó một tháng ngày 19-7-1965, Hồ Chủ tịch đến thăm Quân chủng Phòng không - Không quân (PK-KQ), tại Trung đoàn 234 (Đoàn pháo cao xạ Tam Đảo), Bác khẳng định: “... Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền, dù chúng có B.57, B.52 hay “bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng”.

- Ngày 12-4-1966, đế quốc Mỹ dùng B.52 ném bom khu vực Đèo Mụ Giạ, (Quảng Bình), mở đầu việc đánh phá của B.52 đối với miền Bắc nước ta. Ít lâu sau, B.52 đánh rộng đến Vĩnh Linh, phía bắc vĩ tuyến 17 với mức độ ngày càng dữ dội. Bác Hồ đã chỉ thị cho đồng chí Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng PK-KQ: “B.52 đã ném bom miền Bắc, phải tìm cách đánh cho được B.52. Trách nhiệm này Bác giao cho các chú PK-KQ”.

- Để có cơ sở xây dựng quyết tâm và kế hoạch đánh B.52, tháng 5-1966 Bộ Tư lệnh Quân chủng đã điều Trung đoàn tên lửa 238 vào tuyến lửa Vĩnh Linh để nghiên cứu cách đánh B.52. Với khẩu hiệu “Dọn đường mà đi, đánh địch mà tiến”, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn đã nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, vừa hành quân và tham gia chiến đấu đánh địch, vượt qua muôn ngàn gian khó và sự mất mát hy sinh để đưa khí tài tên lửa vào tuyến lửa chủ động “tìm địch mà diệt”.

- Sau trận đánh B.52, ngày 15-3-1967, của Trung đoàn 238, nhất là đến ngày 17-9-1967, sau một thời gian dày công nghiên cứu, nhận dạng máy bay B.52, kíp chiến đấu của Tiểu đoàn 84/Trung đoàn 238 đã bắn rơi 1 B.52, “bài toán” đánh B.52 đã được mở ra, làm cơ sở viết nên cuốn cẩm nang đỏ “Cách đánh B.52”, củng cố lòng tin và quyết tâm đánh thắng B.52. Đây là kíp chiến đấu đầu tiên của bộ đội tên lửa Việt Nam bắn rơi “pháo đài bay B.52” và cũng là lực lượng đầu tiên đánh thắng máy bay chiến lược B.52 của đế quốc Mỹ.

- Đầu Xuân Mậu Thân (1968), Bác Hồ gọi đồng chí Phùng Thế Tài - Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và đồng chí Đặng Tính - Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân chủng PK-KQ đến báo cáo tình hình và Bác dự báo rằng: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 ra đánh Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình hống này càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ chuẩn bị... Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.

- Từ tháng 2-1968 Quân ủy Trung ương dự kiến Mỹ có thể dùng B.52 leo thang đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Phòng không.

- Không quân xây dựng kế hoạch tác chiến, từ đó đến giữa năm 1972 Quân chủng PK-KQ tiếp tục đưa thêm 4 trung đoàn tên lửa cùng một số máy bay Míc-21 vào Khu 4 để chi viện cho chiến dịch Trị - Thiên và trực tiếp nghiên cứu cách đánh B.52. Tuy đã bắn rơi được B.52, nhưng B.52 chưa rơi tại chỗ và chưa bắt sống giặc lái. Nhưng từ những nghiên cứu thực tế thu được đã có cơ sở để tháng 9-1972 Quân chủng PK-KQ xây dựng được “phương án đánh máy bay B.52”.

- Từ những nhận định và quyết tâm trên, Quân chủng PK-KQ đã sớm có “Kế hoạch tác chiến đánh trả cuộc tập kích bằng B.52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng” và các tài liệu hướng dẫn về cách đánh B.52. (Tiêu biểu là cuốn “Cẩm nang bìa đỏ” đó là cuốn sách “Cách đánh B.52 của Bộ đội Tên lửa”, in rô-nê-ô chỉ dày 30 trang nhưng là kết quả của cả quá trình xây dựng hết sức công phu, gian khổ của một lực lượng PK-KQ từ trong chiến trường Khu 4. Trên cơ sở này, ngày 31-10-1972, Quân chủng tổ chức Hội nghị cán bộ tập trung bàn về cách đánh B.52. Theo đó, công tác chuẩn bị mọi mặt được tiến hành hết sức khẩn trương. Quân chủng tập trung vào việc điều chỉnh lực lượng, đội hình chiến đấu; triển khai sở chỉ huy dự bị các cấp; huấn luyện các kíp chiến đấu; tiến hành công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, xây dựng quyết tâm; tổ chức đôn đốc kiểm tra.

- Đến ngày 5-4-1972 khi quân và dân ta ở miền Nam đang thắng lớn, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho Quân chủng PK-KQ và các Quân khu: “Phải sẵn sàng đối phó với khả năng Mỹ cho không quân, kể cả không quân chiến lược đánh phá trở lại miền Bắc”.

- Trong một buổi họp quan trọng của Bộ Quốc phòng (11-1972), Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định: Mỹ cho B.52 đánh Thủ đô Hà Nội, linh hồn của cuộc kháng chiến sẽ là hành động gây sức ép cuối cùng để buộc chúng ta phải nhân nhượng. Vì vậy, chúng ta phải kiên quyết đánh thắng chúng trên bầu trời Thủ đô.

- Ngày 24-11-1972, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng cùng các Tổng Tham mưu Phó Trần Quý Hai, Vương Thừa Vũ, Cao Văn Khánh, Phùng Thế Tài đã thông qua và phê chuẩn kế hoạch đánh B.52 bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng của Quân chủng PK-KQ. Đây là một chiến dịch phòng không được tiến hành chủ yếu bằng lực lượng phòng không ba thứ quân trên miền Bắc, lấy Quân chủng PK-KQ làm nòng cốt. Sau khi ký duyệt, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng ra lệnh: “Phải hoàn thành nhiệm vụ công tác chuẩn bị trước ngày 3-12-1972” và còn dặn thêm: “Trước ngày Ních-xơn nhậm chức, Mỹ có thể mở đợt tập kích bằng không quân chiến lược ra Hà Nội, Hải Phòng, các đồng chí phải nắm địch thật chắc. Tuyệt đối không để bị bất ngờ... Phải tập trung mọi khả năng nhằm đúng đối tượng B.52 mà tiêu diệt”.

- Đầu tháng 12-1972, Bí thư Thứ Nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Lê Duẩn đã xuống Sở Chỉ huy Quân chủng PK-KQ, trực tiếp nghe Tư lệnh Lê Văn Tri trình bày về kế hoạch đánh B.52 của Quân chủng và nhấn mạnh: “Để gây sức ép với ta trước sau Mỹ cũng sẽ đưa B.52 ném bom Hà Nội. Quân dân ta, mà nòng cốt là Quân chủng PK-KQ, phải kiên quyết làm thất bại âm mưu này của chúng”.

Thực tế là đêm 18-12-1972 khi chiến dịch tập kích đường không của Mỹ vào Hà Nội bắt đầu, chúng ta đã hoàn toàn chủ động đối phó, không bị bất ngờ. Chúng ta đã sớm phát hiện địch từ xa và chủ động đánh địch ngay từ đầu (Trạm Ra đa 45, lúc 19 giờ 15 đã chính thức báo cáo B.52 đang vào Hà Nội) đến 19 giờ 44 quả đạn tên lửa đầu tiên của Tiểu đoàn 78 được phóng lên.

Như vậy có thể nói về mặt chiến lược, chúng ta hoàn toàn chủ động, không hề bị bất ngờ trước mưa thâm, kế hiểm của đế quốc Mỹ.

b. Chủ động chuẩn bị về mặt chiến dịch, chiến thuật

- Trên cơ sở những nhận định và chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu, Quân chủng PK-KQ đã sớm có “Kế hoạch tác chiến đánh trả cuộc tập kích bằng B.52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và khẩn trương chuẩn bị các tài liệu hướng dẫn về cách đánh B.52 để phổ biến cho các đơn vị. Tiêu biểu là cuốn “Cẩm nang bìa đỏ”, cuốn sách “Cách đánh B.52 của Bộ đội Tên lửa”, in rô-nê-ô, dày 30 trang nhưng là kết quả tổng kết kinh nghiệm thực tiễn quý giá từ tác chiến của lực lượng PK-KQ từ chiến trường Khu 4.

- Ngày 31-10-1972, Quân chủng PK-KQ quân tổ chức Hội nghị cán bộ tập trung bàn về cách đánh B.52.

- Về công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) có một nội dung hết sức quan trọng trong thời điểm này là việc chống “ảo tưởng hòa bình” đã xuất hiện trong tư tưởng của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ Quân chủng PK-KQ và lực lượng vũ trang nhân dân miền Bắc nói chung.

- Để có cơ sở xây dựng quyết tâm và kế hoạch đánh B.52, từ tháng 5-1966 Bộ Tư lệnh Quân chủng đã điều Trung đoàn tên lửa 238 vào tuyến lửa Vĩnh Linh để nghiên cứu cách đánh B.52 theo lời căn dặn của Bác “Muốn bắt cọp thì phải vào tận hang”.

- Ngày 15-3-1967, B.52 xuất hiện, Trung đoàn 238 đã tổ chức trận đánh tập trung nhưng chưa thành công.

- Ngày 17-9-1967, sau một thời gian dày công nghiên cứu, nhận dạng máy bay B.52, kíp chiến đấu của Tiểu đoàn 84 - Trung đoàn 238 đã bắn rơi 1 chiếc B.52. Đây là kíp chiến đấu đầu tiên của bộ đội tên lửa Phòng không Việt Nam bắn rơi “pháo đài bay B.52” của không quân chiến lược Mỹ.

Từ năm 1968 đến giữa năm 1972 Quân chủng PK-KQ tiếp tục đưa một số đơn vị tên lửa phòng không và máy bay Míc-21 vào Khu 4 để chi viện cho chiến trường Trị Thiên và trực tiếp nghiên cứu cách đánh B.52.

Ngày 3-12-1972, Bộ Tư lệnh Quân chủng PK-KQ báo cáo lên Bộ Tổng Tham mưu: “Mọi mặt công tác chuẩn bị đánh B.52 đã xong, quyết tâm của Quân chủng kiên quyết không để bị bất ngờ, bắn rơi tại chỗ máy bay địch, kể cả B.52”.

Như vậy, về mặt chiến dịch ta đã chuẩn bị chu đáo. Đêm 18-12-1972 khi chiến dịch tập kích đường không của Mỹ vào Hà Nội, chúng ta đã hoàn toàn chủ động đối phó, không bị bất ngờ.

4. Tóm tắt diễn biến cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B.52 của Mỹ và sự giáng trả quyết liệt của quân và dân ta, tháng 12-1972.

- Ngày 17-12-1972, Nich-xơn chính thức ra lệnh mở Chiến dịch Lai-nơ-bech-cơ II, sử dụng không quân chiến lược B.52, tập kích với quy mô hủy diệt vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã trên miền Bắc.

- Bộ Tổng Tham mưu ra lệnh cho Quân chủng PK-KQ chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đề phòng máy bay B.52 đánh từ vĩ tuyến 20 trở ra.

- Đêm 18-12-1972:

+ 18 giờ 50 phút, toàn Quân chủng PK-KQ chuyển trạng thái chiến đấu vào cấp 1.

+ 19 giờ 10 phút, Đại đội ra đa 16/Trung đoàn 291 phát hiện được nhiều B.52, tiếp đó 19h15 phút, Đại đội ra đa 45/Trung đoàn 291 phát hiện và kịp thời báo cáo về sở chỉ huy: “B.52 đang vào miền Bắc”.

+ 19 giờ 25 phút, không quân ta được lệnh cất cánh đón đánh các tốp máy bay chiến thuật Mỹ ở Tam Đảo, Việt Trì. Máy bay F.111 ném bom sân bay Nội Bài, Kép...

+ Từ 19 giờ 20 phút đến 20 giờ 18 phút, nhiều tốp B.52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm...

+ 19 giờ 44 phút, quả đạn tên lửa đầu tiên của Tiểu đoàn 78 thuộc Trung đoàn Tên lửa Phòng không 257 được phóng lên.

+ 20 giờ 13 phút, Tiểu đoàn 59/Trung đoàn tên lửa Phòng không 261 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thăng chỉ huy phóng 2 quả đạn hạ 1 máy bay B.52 (rơi xuống cánh đồng Chuôm thuộc xã Phủ Lỗ huyện Đông Anh, cách trận địa gần 10km). Đây là chiếc máy bay B.52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ trên bầu trời Hà Nội.

+ Trong đêm đầu tiên 18/12 và rạng ngày 19/12, Mỹ huy động 90 lần chiếc B.52 ném 3 đợt bom xuống Hà Nội, 8 lần chiếc F.111 và 127 lần chiếc máy bay chiến thuật bắn phá các khu vực nội, ngoại thành. Mỹ đã ném khoảng 6.600 quả bom xuống 135 địa điểm thuộc Hà Nội, 85 khu vực dân cư bị trúng bom làm thương vong 300 người. Quân và dân ta bắn rơi 3 máy bay B.52 (2 chiếc rơi tại chỗ), 3 máy bay chiến thuật (2 chiếc F4, 1 chiếc A7).

+ Từ đêm 19-12 đến 29-12-1972, Mỹ liên tục tấn công Hà Nội và các địa phương khác trong toàn miền Bắc bằng máy bay chiến lược B.52, máy bay F.111 “Cánh cụp cánh xòe”, máy bay F4, F5 và các loại phương tiện tiến công đường không chiến thuật hiện đại khác và trong 12 ngày đêm oanh liệt đó không có ngày nào quân dân ta không bắn rơi máy bay B.52 của Mỹ (trừ ngày 25-12, lấy cớ nghỉ lễ Noel, địch tạm ngừng cuộc tập kích để củng cố lực lượng, ổn định tinh thần giặc lái, rút kinh nghiệm, tìm thủ đoạn và cách đánh mới).

+ Cao điểm nhất là 26-12, lúc 22 giờ 5 phút, địch sử dụng 105 lần chiếc máy bay B.52 và 110 lần chiếc máy bay chiến thuật hộ tống, đánh ồ ạt, liên tục từ nhiều hướng và tập trung một đợt vào nhiều mục tiêu ở 3 khu vực Hà Nội, Hải Phòng và Thái Nguyên. Đây là trận đánh lớn nhất và là trận then chốt trong cuộc tập kích đường không chiến lược của địch. Trận tập kích này chỉ diễn ra trong thời gian hơn một giờ, ta đã bắn rơi 8 máy bay B.52. Thất bại lớn này đã làm suy sụp tinh thần và ý chí của giới cầm quyền Nhà Trắng và Lầu Năm góc. Đến đêm 29-12 máy bay B.52 của Mỹ chỉ dám đánh vào khu gang thép Thái Nguyên, Đồng Mỏ (Lạng Sơn), Kim Anh (Vĩnh Phú), mà không dám tập trung lực lượng ở tọa độ lửa Hà Nội nữa.

Trước sự thất bại lớn và liên tiếp trong 12 ngày đêm đánh phá miền Bắc Việt Nam, 7 giờ sáng ngày 30-12, Ních-xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận quay lại bàn đàm phán. Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B.52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và miền Bắc Việt Nam của Mỹ đã bị thất bại hoàn toàn.

5. Tội ác của đế quốc Mỹ trong cuộc tập kích đường không chiến lược và chiến thắng của quân và dân ta, tháng 12-1972.

a. Tội ác của đế quốc Mỹ

Cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972 của đế quốc Mỹ là một cuộc ném bom hủy hiệt vô cùng man rợ. Trong 12 ngày đêm, Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B52 và 3.920 lần chiếc máy bay chiến thuật, ném xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu trọng yếu khác trên miền Bắc nước ta, hơn 100 ngàn tấn bom đạn. Riêng Thủ đô Hà Nội chúng đã sử dụng 441 lần chiếc B.52 cùng hàng ngàn lần chiếc máy bay chiến thuật, ném hơn 10 ngàn tấn bom. Chúng đã hủy diệt nhiều khu phố, làng mạc, phá sập 5.480 ngôi nhà, trong đó gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà ga, giết hại 2.368 dân thường, làm bị thương 1.355 người khác.

Phố Khâm Thiên, một khu vực có mật độ dân số đông nhất Hà Nội, đã bị bom B.52 tàn phá cả chiều dài trên 1km, gần 2000 ngôi nhà, đền chùa, trường học, trạm xá bị phá sập, 287 người chết, 290 người bị thương, có gia đình 6 người ngồi trong hầm chết toàn bộ. Cùng với Khâm Thiên, máy bay B.52 của Mỹ còn rải bom xuống hơn 100 điểm dân cư trong thành phố (Bệnh viện Bạch Mai, Gia Lâm, Yên Viên, Uy Nỗ, An Dương...) làm hơn 1.000 người bị thương vong.

b. Chiến thắng của quân và dân ta

Trong 12 ngày đêm từ ngày 18 đến ngày 29-12-1972 có 81 máy bay Mỹ bị ta bắn rơi, gồm: (34 chiếc B.52, 5 chiếc F.111A, 21 chiếc F.4C-E, 4 chiếc A6A, 12 chiếc A7, 1 chiếc F.105D, 2 chiếc RA5C, 1 chiếc trực thăng HH53, 1 chiếc trinh sát không người lái 147SC).

Sau cuộc ném bom tàn bạo ấy, ngày 30-12-1972, tướng Gioocs Ết-tơ, Phó Chỉ huy không quân chiến lược Mỹ thú nhận trên tạp chí Không lực Hoa kỳ rằng, “Tổn thất về máy bay chiến lược B.52 cùng các nhân viên phi hành là hết sức nặng nề, là đòn choáng váng đánh thẳng vào những nhà vạch kế hoạch của Lầu Năm góc”.

Trong hồi ký của mình, Ních-xơn viết: “Nỗi lo của tôi trong những ngày này không phải là lo những làn sóng phản đối, phê phán nghiêm khắc ở trong nước và trên thế giới, mà chính là mức độ tổn thất về máy bay B.52 quá nặng nề”.

Đi đôi với tổn thất về máy bay, phía Mỹ còn phải chịu thêm tổn thất về người lái. Trong quân đội, người lái máy bay được coi là sinh lực cao cấp. Để đào tạo được 1 phi công đặc biệt là phi công chiến lược B.52, phi công F.111 phải tốn khá nhiều tiền bạc và thời gian. Chỉ hơn 10 ngày Không quân Hoa kỳ đã mất gần 100 phi công (bị chết và bị bắt). Đây đều là những phi công kỳ cựu, có giờ bay cao, có phi công có hơn 6.000 giờ bay.

Thông thường trong chiến tranh, ở những trận tập kích đường không lớn, tỉ lệ tổn thất về máy bay của phe tiến công là khoảng 1 - 2%. Vậy mà trong cuộc tập kích không quân chiến lược cuối tháng 12-1972 này tỉ lệ tổn thất về máy bay của Mỹ (chỉ tính riêng B.52) đã lên tới 17% (34/193 chiếc), thực sự là sự tổn thất khủng khiếp.

 

Phần thứ hai

NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ, BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CHIẾN THẮNG “HÀ NỘI - ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG”

1. Nguyên nhân thắng lợi

Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” cách đây 40 năm do nhiều nguyên nhân, trong đó cơ bản nhất đó là:

a. Có sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Bác Hồ và Quân ủy Trung ương

Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ sứ mệnh, trọng trách của mình trước giai cấp, dân tộc. Từ cuối năm 1967 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự định đúng khả năng Mỹ sử dụng B.52 đánh phá Hà Nội. Khi nhận định rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, Người đã chỉ đạo Quân ủy Trung ương xây dựng chiến lược chống lại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B.52 của Mỹ và giao cho Quân ủy Trung ương khẩn trương lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang, mà trực tiếp là Quân chủng PK-KQ, xây dựng kế hoạch tác chiến phòng không chống địch tập kích bằng B.52 vào Hà Nội; động viên quân dân thủ đô Hà Nội và đồng bào, chiến sĩ cả nước phát huy trí thông minh, lòng dũng cảm, nêu cao tinh thần, ý chí, quyết tâm dám đánh, quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

Ngày 18/12/1972, máy bay Mỹ bất ngờ tấn công sân bay của ta vốn được bố trí khá xa và ngụy trang tốt. Liên lạc bị cắt, anh hùng Phạm Tuân là phi công đầu tiên cất cánh lên bầu trời sau khi có báo động. Ảnh: Infonet

Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, “thế trận phòng không nhân dân” của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Là nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng không nhân dân, phòng tránh, đánh trả cuộc tập kích đường không chiến lược của Đảng ta. Trước khi diễn ra cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B.52 của Mỹ, Quân ủy Trung ương đã dày công nghiên cứu, đánh giá chính xác tình hình, đúng âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù; chỉ rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, hiểu rõ những thuận lời cơ bản cùng những khó khăn của quân và dân ta trong việc chống lại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B.52 của Mỹ. Trong cuộc đọ sức quyết liệt đó, Đảng ta luôn tỏ rõ là Bộ tham mưu của giai cấp, dân tộc, lãnh đạo quân dân Thủ đô Hà Nội và cả nước tiến hành cuộc chiến đấu thần thánh trên mọi chiến trường, giành thắng lợi to lớn.

Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn coi trọng các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo của Đảng và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các nguyên tắc đó trong điều kiện chiến tranh. Trong suốt 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972 chiến đấu với cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ, Đảng ta, trực tiếp là Quân ủy Trung ương thực sự là một khối thống nhất vững chắc, đã đưa ra những mệnh lệnh chính xác, kịp thời, đúng thời cơ, thực sự là nhân tố quyết định đưa chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972 chống lại cuộc tập kích chiến lược bằng B.52 của Mỹ đi tới thắng lợi hoàn toàn.

b. Do sự chủ động, sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến đấu chống lại cuộc tập kích đường không chiến lược 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972 của đế quốc Mỹ.

Trên cơ sở những nhận định và chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu, Quân chủng PK-KQ đã sớm có “Kế hoạch tác chiến đánh trả cuộc tập kích bằng B.52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng”.

Lần đầu tiên đương đầu với cuộc tập kích chiến lược bằng siêu pháo đài bay B.52 và các loại vũ khí tối tân hiện đại của Mỹ, các lực lượng vũ trang của ta đã tìm ra cách đánh hay, phù hợp điều kiện thực tế về trang bị. Bộ đội ra đa qua thực tế chiến đấu đã tách được B52 ra khỏi nền nhiễu và tách được B52 ra khỏi lực lượng hộ tống trong một khối nhiều dày đặc. Bộ đội tên lửa đã khắc phục được những hạn chế về tính năng binh khí kỹ thuật, phân biệt được mục tiêu thật và giả, tránh được tên lửa tự dẫn của máy bay địch (tên lửa không đối đất), nhận diện được B.52, tạo cho mình thế trận có lợi nhất để tiêu diệt mục tiêu. Quân và dân ta đã nghiên cứu phát hiện điểm mạnh, yếu của địch bảo đảm lực lượng nào cũng có thể hạ máy bay, vũ khí nào cũng phát huy tác dụng, luôn chủ động, sáng tạo, dũng cảm, ngoan cường trong chiến đấu chống lại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B.52 12 ngày đêm tháng 12-1972 của đế quốc Mỹ.

Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường, bền bỉ và anh dũng; thắng lợi của bản lĩnh, trí tuệ của các lực lượng vũ trang nhân dân trong cả nước, trong đó nòng cốt là bộ đội Phòng không - Không quân và nổi bật là quân dân Thủ đô Hà Nội đã phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc, nêu cao tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, chiến đấu mưu trí, sáng tạo, dũng cảm, kiên cường, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, quyết tâm đánh thắng kẻ thù.

c. Do đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của thế trận phòng không nhân dân; cả nước, đặc biệt là quân dân Thủ đô Hà Nội đã đoàn kết, thống nhất, quyết tâm đánh thắng cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B.52 của đế quốc Mỹ.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, ta đã huy động, tập trung lực lượng phòng không cho chiến dịch, bao gồm 5 trung đoàn tên lửa, 6 trung đoàn cao xạ, 4 trung đoàn không quân, trong đó có 2 trung đoàn Míc 21, 4 trung đoàn ra đa. Ngoài ra còn có 346 đội (1.316 khẩu pháo) phòng không các loại của dân quân, tự vệ. Toàn bộ lực lượng này được bố trí thành thế trận vững chắc, hiểm hóc tại các địa bàn trọng yếu ở trong và các vùng lân cận Hà Nội, Hải Phòng.

Ta đã xây dựng được một thế trận phòng không thứ ba thứ quân vững chắc và duy trì được sự phối hợp hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa các lực lượng. Bên cạnh các lực lượng phòng không chủ lực, tại thủ đô Hà Nội ta đã tổ chức được gần một trăm trận địa pháo phòng không tầm thấp và bốn đại đội cao xạ tầm trung (loại 100mm), nhiều trận địa được bố trí trên các tòa nhà cao tầng, gần các mục tiêu trọng điểm, đón lõng trên các đường bay của địch... Ngoài ra còn có 1.122 tổ đội dân quân, tự vệ phối hợp đánh trả máy bay địch. Hiệu quả trong chiến đấu và nghệ thuật tác chiến của cách bố trí này được miêu tả qua lời một phi công Mỹ may mắn thoát chết: “Khi những chiếc B.52 đầu tiên tới vùng trời Hà Nội, tên lửa đất đối không bắn như pháo hoa lên máy bay chúng tôi. Từ khi vào mục tiêu, anh bạn xạ thủ của tôi đã đếm được 32 tên lửa SAM bắn vào hoặc ít ra cũng bay sát máy bay chúng tôi. Chiếc máy bay số 2 trong tổ bay mất liên lạc nhưng không ai có thì giờ tìm hiểu nó”.

Đứng trước những khó khăn, thách thức, quân dân cả nước, nhất là quân và dân Thủ đô Hà Nội đã thể hiện rõ tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Sự đoàn kết, thống nhất đó đã tạo nên sức mạnh vô địch, sức mạnh của lòng yêu nước, của ý chí, quyết tâm dám đánh, quyết đánh và quyết thắng; là biểu tượng sức mạnh của dân tộc Việt Nam, một dân tộc đất không rộng, người không đông nhưng đã đoàn kết, kiên cường đấu tranh chống lại một đội quân xâm lược nhà nghề, có vũ khí, trang bị hiện đại nhất thế giới lúc đó để giành thắng lợi.

Sự đoàn kết, thống nhất trong cả nước, đặc biệt là quân dân Thủ đô Hà Nội đã huy động được sức mạnh tổng hợp của thế trận phòng không nhân dân để đối phó hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù và trở thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn với cả một cao trào toàn dân đánh máy bay Mỹ, toàn dân làm công tác phòng tránh, toàn dân làm công tác giao thông vận chuyển, toàn dân hợp tác và giúp đỡ bộ đội chiến đấu..., góp phần đánh thắng cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B.52 cuối tháng 12-1972 của đế quốc Mỹ.

d. Do có sự ủng hộ, giúp đỡ của anh em, bạn bè và nhân loại tiến bộ thế giới

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong chiến dịch phòng không chống lại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B.52 của đế quốc Mỹ cuối tháng 12-1972 nói riêng, Đảng ta luôn đặt vấn đề tăng cường đoàn kết quốc tế là một nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược, góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của quân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Đó là sự kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và đặc biệt sự giúp đỡ to lớn, hiệu quả về mọi mặt của chính phủ và nhân dân các nước XHCN anh em; sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, của các lực lượng cách mạng, dân chủ hòa bình và của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ... đã tạo ra một tập hợp lực lượng mạnh mẽ, bao vậy, cô lập và tiến công đế quốc Mỹ từ mọi phía.

2. Ý nghĩa lịch sử

- Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” của quân và dân ta có ý nghĩa dân tộc và thời đại vô cùng sâu sắc.

a. Đối với dân tộc

- Chiến thắng “Điện Biên phủ trên không” đã thể hiện đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn của Đảng ta, của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và chế độ XHCN ưu việt của nhân dân ta.

- Đó là chiến thắng của sức mạnh chính trị, tinh thần của toàn dân tộc, là ý chí quyết đánh, dám đánh và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược bằng tất cả sự mưu trí, dũng cảm và tinh thần chủ động sáng tạo, khắc phục khó khăn.

- Đó là chiến thắng của sự kế thừa và phát huy truyền thống quân sự Việt Nam, của đường lối chiến tranh nhân dân và nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng trong thế trận Phòng không nhân dân, trong tổ chức hiệp đồng chiến đấu tạo thành sức mạnh tổng hợp cả trên không và mặt đất để chiến thắng kẻ thù.

- “Điện Biên Phủ trên không” là trận quyết chiến có ý nghĩa chiến lược, là trận thử thách chưa từng có trong lịch sử của quân và dân miền Bắc, mà nòng cốt là Bộ đội PK-KQ với lực lượng không quân chiến lược Mỹ, đã góp phần tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân ta, để chúng ta thực hiện trọn vẹn lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.

- Chiến thắng “Điện Biên phủ trên không” mãi mãi trở thành dấu son chói lọi trong truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến thắng đó đã trở thành truyền thống vẻ vang và niềm tin vững chắc trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của bộ đội PK-KQ.

b. Chiến thắng mang ý nghĩa thời đại sâu sắc

- “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” là chiến thắng của chế độ XHCN ở miền Bắc được thôi thúc bởi ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của cả dân tộc, sự cổ vũ những chiến công to lớn của quân và dân miền Nam đánh bại sức mạnh quân sự của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ.

- “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” là đòn đánh lịch sử, mở đường cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới ở Việt Nam; góp phần làm tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của phong trào cách mạng thế giới vào chủ nghĩa đế quốc; đem lại lòng tin cho nhân loại tiến bộ trên trái đất đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

- Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” đã chứng minh sức sống của học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh cách mạng trong thời đại ngày nay và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam.

- Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” có thể coi như một “cuộc đụng đầu lịch sử tiêu biểu, mang nhiều ý nghĩa sâu xa về chính trị và quân sự, không những với quá khứ mà còn cho cả tương lai, đã để lại “Hội chứng Việt Nam”, vết thương trong lòng nước mỹ không dễ gì xóa được.

3. Những bài học kinh nghiệm của chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”

Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu, đó là:

a. Sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, tài thao lược của Quân ủy Trung ương là nhân tố quyết định, làm nên chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.

Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” đã góp phần minh chứng đường lối chính trị, học thuyết quân sự đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, với tài thao lược của Quân ủy Trung ương - Bộ thống soái tối cao của đất nước, được thể hiện qua năng lực phân tích, đánh giá đúng tình hình địch, tình hình ta, hạ quyết tâm chiến lược chính xác, kịp thời; là quan điểm khoa học, toàn diện và thực tiễn, không chỉ đánh giá lực lượng quân sự mà đánh giá toàn diện trên các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa trong nước và thế giới; đánh giá đúng quan hệ giữa thời cơ và điều kiện, giữa thế và lực. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa cách mạng và khoa học, giữa dám đánh và biết đánh, giữa ý chí kiên định, bản lĩnh vững vàng với năng lực chỉ huy, lãnh đạo tài giỏi của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Điều đó khẳng định, sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, tài thao lược của Quân ủy Trung ương là nhân tố quyết định, làm nên chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.

b. Phát huy nhân tố chính trị tinh thần, tăng cường sức mạnh, ý chí chiến đấu, tinh thần dám đánh, quyết đánh và quyết thắng của quân và dân ta.

Trước cũng như trong quá trình chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972, Quân ủy Trung ương đã tập trung chỉ đạo sát sao các hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, nhằm làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cũng như toàn thể nhân dân miền Bắc, nhân dân Thủ đô Hà Nội nhận thức đúng đắn âm mưu, thủ đoạn của địch; tính chất gay go, ác liệt của cuộc đối đầu lịch sử; nêu cao tinh thần yêu nước, khắc sâu lòng căm thù tội ác của đế quốc Mỹ đối với nhân dân ta, từ đó củng cố quyết tâm chiến đấu, khắc phục mọi biểu hiện hữu khuynh, dao động, thiếu niềm tin vào chiến thắng. Bom đạn Mỹ có thể tàn phá trận địa, công trình, cơ sở vật chất, kỹ thuật chứ không thể khuất phục được ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta. Trong điều kiện hạn chế về vũ khí, trang bị kỹ thật, quân dân cả nước, nhất là quân dân Thủ đô Hà Nội đã vượt qua gian khổ, tìm tòi, sáng tạo, vượt qua mọi thử thách quyết liệt, đoàn kết, chi viện lẫn nhau quyết tâm đánh thắng siêu pháo đài bay B.52 của Mỹ... Đó là sức mạnh, ý chí chiến đấu, tinh thần dám đánh, quyết đánh và quyết thắng của quân và dân ta trong chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972.

Có nhiều yếu tố tạo nên sức mạnh của quân và dân ta trong chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972. Để chiến thắng cuộc tập kích chiến lược bằng B.52 của đế quốc Mỹ, nhân tố chính trị tinh thần là yếu tố hết sức quan trọng. Để đối phó với âm mưu thâm độc của kẻ thù, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân thủ đô Hà Nội đã cùng với quân dân cả nước không chỉ tích cực chuẩn bị về vũ khí, trang bị, vật chất, mà còn mài sắc ý chí chiến đấu về chính trị tinh thần. Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, các đơn vị quân đội đã chú trọng công tác xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, trong đó lấy xây dựng về chính trị làm nền tảng; đặc biệt, phát huy cao độ nhân tố con người - Nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cuộc đọ sức thần kỳ với giặc Mỹ trong 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972.

Nhân tố chính trị tinh thần đó được bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Đảng, từ tính ưu việt của chế độ XHCN, lòng yêu Tổ quốc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, từ truyền thống của dân tộc và ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta. Nhân tố đó được thể hiện trong lời dạy của Hồ Chủ tịch ngay từ khi đế quốc Mỹ sử dụng B.52 trên chiến trường Việt Nam: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B.57, B.52 hay B gì đi chăng nữa ta cũng đánh... Mà đã đánh là nhất định thắng”.

Phát huy nhân tố CTTT tạo thành sức mạnh chiến đấu là một bài học truyền thống, một yêu cầu cơ bản đối với quá trình xây dựng, chiến đấu là trưởng thành của Quân đội ta, của Bộ đội PK-KQ. Vận dụng sáng tạo những bài học cơ bản đó trong điều kiện, hoàn cảnh mới là một đảm bảo quan trọng để trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, quân đội ta cũng luôn xứng đáng là lực lượng chính trị trung thành, lực lượng chiến đấu tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân.

c. Linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng thế trận và sử dụng lực lượng

Một trong những yếu tố các tác động trực tiếp đến thành công của chiến dịch 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, đó là, quân và dân ta đã xây dựng được một thế trận phòng không hết sức sáng tạo và độc đáo, trở thành yêu tố cấu thành nghệ thuật tác chiến phòng không, góp phần làm nên trường phái của học thuyết quân sự Việt Nam. Đó là thế trận cài xen kẽ trong chiến đấu phòng không, là thế trận hết sức hiểm hóc của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam. Đó là thế trận phòng không “Chân vạc”, hình thành ba cụm phòng không chiến dịch: cụm phòng không Hà Nội, cụm phòng không Hải Phòng, cụm phòng không phía Bắc đường 1, Thái Nguyên. Trong quá trình chiến dịch, ta đã chủ động chuyển hóa thế trận, điều chuyển vị trí chiến đấu một số đơn vị tên lửa phòng không, thay đổi sân bay cất cánh cho không quân ta đánh từ xa, đã gây bất ngờ lớn cho địch, tạo nên yếu tố trực tiếp và quyết định thắng lợi của chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972 của Mỹ.

Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” cũng chính là chiến thắng của nghệ thuật sử dụng lực lượng, bày binh, bố trận, cơ động tác chiến, theo một ý định cách đánh sáng tạo của quân và dân ta. Phát huy cao độ tiềm năng chiến đấu của lực lượng phòng không ba thứ quân, tạo nên hệ thống hỏa lực phòng không rộng khắp, tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh thắng, vừa tập trung hiệp đồng tiêu diệt lớn, vừa đồng thời đánh liên tục, tại chỗ, rộng khắp trên các địa bàn. Trong toàn chiến dịch, chúng ta đã phát huy tốt sức mạnh “Toàn dân tham gia bắn máy bay Mỹ”, “toàn dân tham gia bắt giặc lái” và đã tạo nên một lưới lửa phòng không dày đặc, nhiều tầng, nhiều nấc, hoạt động nhịp nhàng, đánh địch liên tục từ xa đến gần, đánh địch ở mọi tầng cao, đánh địch từ nhiều phía, đánh trực diện, đánh từ sau, từ bên sườn, gây cho địch lúng túng không thể tránh được lưới lửa phòng không của ta, đảm bảo chiến đấu thắng lợi trong suốt toàn bộ chiến dịch 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972.

d.  Phát huy sức mạnh tổng hợp

Trong chiến dịch 12 ngày đêm tháng Chạp năm 1972, chúng ta đã rất thành công trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận phòng không nhân dân, tạo nên hệ thống hỏa lực phòng không rộng khắp, tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù.

Đó là sức mạnh của việc chủ động, tích cực đánh địch, tiêu diệt lực lượng tiến công chiến lược B.52 của bộ đội PK-KQ nhân dân Việt Nam (lực lượng chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam), Trong thế trận đó, phải kể đến vai trò của: Bộ đội Ra đa; Bộ đội Không quân tiêm kích; Bộ đội Tên lửa PK; Bộ đội Pháo PK. Ta đã tập trung một lực lượng phòng không chủ lực mạnh nhất cho chiến dịch, bao gồm ba sư đoàn phòng không, bốn trung đoàn không quân, cùng với các đơn vị phòng không của các quân khu Việt Bắc, Hữu Ngạn, Tả Ngạn. Ngoài ra còn có hàng trăm đội phòng không của dân quân, tự vệ. Toàn bộ lực lượng này được bố trí thành thế trận chiến dịch phòng không vững chắc, hiểm hóc trên các địa bàn trọng yếu trong lòng thủ đô và các vùng lân cận của TP. Hà Nội, Hải Phòng.

Ngoài lực lượng PK chủ lực của quân đội ra, quân dân Thủ đô Hà Nội luôn là lực lượng sát cánh trong chiến dịch PK 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972. Lực lượng PK Thủ đô là lực lượng tại chỗ, rộng khắp, đánh máy bay địch bay thấp hoạt động tốp nhỏ, chiếc lẻ, trực tiếp bảo vệ các mục tiêu quan trọng của địa phương. Đó là, 92 trận địa pháo phòng không tầm thấp và bốn đại đội cao sạ tầm trung (loại 100mm), nhiều trận địa được bố trí trên các tòa nhà cao tầng, gần các mục tiêu trọng điểm, đón lõng trên các đường bay của địch... Ngoài ra còn có 1.122 tổ đội dân quân, tự vệ phối hợp đánh trả máy bay địch. Mặt khác, quân dân Thủ đô Hà Nội đã tổ chức cho gần 55 vạn nhân nội thành dân sơ tán ra khỏi các trọng điểm đánh phá; chỉ đạo củng cố và xây dựng hàng ngàn hầm hố trú ẩn; tổ chức tốt hệ thống thông tin - thông báo, quan sát báo động; triển khai các phương án khắc phục hậu quả...Do đó, đã hạn chế được thiệt hại về người và của trong suốt chiến dịch.

Sức mạnh tổng hợp của quân và dân ta trong chiến dịch PK 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972, còn được tạo bởi sức mạnh của sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; là sự giúp đỡ, ủng hộ của chính phủ và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em; sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, của các lực lượng cách mạng, dân chủ hòa bình và của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ. Tất cả các lực lượng đó đã tạo thành sức mạnh tổng hợp để quân và dân ta làm nên chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.

 

Phần thứ ba

Phát huy tinh thần chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

Nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực đã có những biến động sâu sắc. Trong đó, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng.

B-52 phơi xác trên đường phố Hà Nội, một trong những tấm ảnh nổi tiếng về trận Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không. Ảnh: Infonet

Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển, các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh giai cấp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ngày càng mạnh mẽ. Mỹ đã chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trở lại Đông Nam Á; các tranh chấp trên biển Đông ngày càng gay gắt.

Trong nước, sau những năm đổi mới, thế và lực của đất nước lớn hơn nhiều so với trước. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng...

Phát huy tinh thần chiến thắng “Hà Nội Điện Biên Phủ trên không” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hôm nay, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... theo tinh thần Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Quán triệt sâu sắc phương hướng lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong những năm tới. Tập trung xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong tình hình mới.

1. Thấu triệt sâu sắc phương hướng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong những năm tới.

- Tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và các nghị quyết của Đảng về quân sự, quốc phòng.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành thống nhất của Nhà nước.

- Đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc, mà trọng tâm là: tăng cường xây dựng tiềm lực quốc phòng; củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận chiến tranh nhân dân; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc; nâng cao khả năng phòng thủ biển, đảo, thềm lục địa và biên giới.

Tăng cường rèn luyện, nâng cao bản lĩnh, trình độ chính trị cho mọi cán bộ, chiến sĩ, nhất là xây dựng bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng trong điều kiện ác liệt của chiến tranh hiện đại, chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh đường không, trên biển.

- Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh, giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Tập trung xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; đổi mới cơ cấu tổ chức; tăng cường trang bị hiện đại; nâng cao chất lượng huấn luyện và các mặt bảo đảm.

Tạo sự chuyển biến thực sự về chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm cho quân đội thực sự là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN và nhân dân.

2.Tập trung xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; có vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại; trình độ sẵn sàng chiến đấu cao; xây dựng chính quy tốt, rèn luyện kỹ thuật nghiêm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

a. Xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức

Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện mới, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị, tư tưởng và tổ chức cần tập trung vào những nội dung sau:

- Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; phẩm chất đạo đức, lối sống, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”; nâng cao giác ngộ và kiên định chủ nghĩa Mác -Lênin,  tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng; xây dựng ý thức trách nhiệm, niềm tin truyệt đối trong cán bộ, chiến sĩ vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước; xây dựng niềm tin vào khả năng và sức mạnh tổng hợp của đất nước; của khối đại đoàn kết toàn dân, truyền thống lịch sử oai hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc; xây dựng ý chí quyết chiến, quyết thắng; tinh thần tự lực tự cường, vượt qua khó khăn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Chủ động phòng chống các âm mưu thủ đoạn “Diễn biễn hòa bình”, trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của kẻ thù; giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.

- Tập trung xây dựng quân đội tinh nhuệ về chính trị, bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, nhất là trình độ, bản lĩnh của mọi quân nhân tác chiến trong chiến tranh hiện đại, chiến tranh công nghệ cao; trong xử lý các tình huống khẩn cấp về quốc phòng, các tình huống trong tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến thuật khi chiến tranh; đồng thời vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

- Giữ vững, tăng cường và ngày càng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội; nâng cao cảnh giác, chống âm mưu “phi đảng hóa”, “phi chính trị” quân đội của các thế lực thù địch; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; tăng cường đấu tranh phê bình và tự phê bình, triển khai thực hiện có chất lượng, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI; tăng cường công tác bảo vệ chính trị, nội bộ, phát huy trách nhiệm của người.

- Tiếp tục quán triệt các nghị quyết của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương về chấn chỉnh tổ chức quân đội đến năm 2020, theo hướng tinh, gọn, nhẹ, cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao.

b. Hiện đại hóa vũ khí, trang bị, kỹ thuật

- Tiếp tục cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ IX về từng bước hiện đại hóa quân đội, trong đó tập trung xây dựng lực lượng hải quân, PK-KQ, thông tin, tác chiến điện tử và trinh sát kỹ thuật hiện đại đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

- Để bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc trong tình hình hiện nay, Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng xác định yêu cầu tập trung hiện đại hóa Quân chủng PK-KQ cũng như xây dựng lực lượng PK Thủ đô hiện đại. Trong những năm qua Quân chủng PK-KQ và lực lượng PK Thủ đô đã đầu tư mua sắm một số loại vũ khí trang bị mới; cải tiến, hiện đại hóa một số vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có. Tiếp tục chấn chỉnh tổ chức, biên chế, điều chuyển lực lượng; đầu tư nâng cấp một số công trình sân bay, công trình chiến đấu, đảm bảo cho các lực lượng của Quân chủng PK-KQ, cũng như lực lượng phòng không Thủ đô hoàn thành tốt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quản lý và bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc.

c. Nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; xây dựng chính quy, rèn luyện kỹ thuật.

Trong không gian tác chiến PK của quân đội ta hiện nay đã mở rộng trên toàn bộ lãnh thổ đất liền và vùng trời trên biển, đảo. Tình hình tranh chấp trên biển Đông giữa các nước trong khu vực có liên quan đang diễn biến phức tạp, khó lường. Nhiệm vụ quản lý và bảo vệ vùng trời Tổ quốc nói chung và việc sẵn sàng chiến đấu của lực lượng phòng không ba thứ quân trong mặt trận đối không phải thường xuyên duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, kiên quyết không bị bất ngờ, lỡ thời cơ, đánh thắng ngay từ trận đầu, ngày đầu. Do vậy, mà hàng loạt vấn đề đặt ra trong công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu đối với các lực lượng PK ba thứ quân phải quan tâm giải quyết ngay từ bây giờ, trong điều kiện đất nước đang thời bình.

Yếu tố quan trọng hàng đầu, trước hết là phải huấn luyện trình độ sẵn sàng chiến đấu; ý chí, quyết tâm đánh thắng mọi kẻ thù, trong mọi tình huống; thường xuyên nâng cao cảnh giác, canh giữ bầu trời, kịp thời phát hiện và đánh trả các cuộc tiến công đường không của địch. Ra sức học tập làm chủ vũ khí khí tài trang bị, nhất là vũ khí khí tài mới được trang bị. Rèn luyện nâng cao trình độ bản lĩnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu đối với cả lực lượng thường trực và lực lượng dự bị, cả lực lượng chủ lực và lực lượng phòng không địa phương, dân quân tự vệ. Nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy, hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng, từng bước bổ sung và hoàn thiện phương án tác chiến trong từng khu vực và trên địa bàn cả nước.

Tập trung huấn luyện theo đúng phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc” và các quan điểm, nguyên tắc, mối kết hợp trong huấn luyện. Tăng cường huấn luyện đêm, cơ động nhanh, huấn luyện hiệp đồng, xử lý các tình huống phức tạp trên biển, đảo và đất liền khu vực trọng điểm. Lấy huấn luyện chính trị làm cơ sở, huấn luyện quân sự làm trọng tâm. Tích cực, chủ động huấn luyện chuyển loại khí tài mới, khí tài cải tiến.

Xuất phát từ tính chất đặc thù của hoạt động quân sự, quốc phòng trong tình hình hiện nay, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật là đòi hỏi tất yếu để bảo đảm Quân đội ta luôn được chặt chẽ về tổ chức; thống nhất về trang phục; mẫu mực về lễ tiết, tác phong; nghiêm minh, nghiêm chỉnh về kỷ luật; thông suốt nhịp nhàng trong hiệp đồng tác chiến và luôn có ý chí, trách nhiệm cao trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và công tác. Do vậy, duy trì và thực hiện nghiêm nền nếp chính quy, xây dựng nếp sống và môi trường văn hóa là những biện pháp cần thiết để củng cố, tăng cường sức mạnh chiến đấu; góp phần rèn luyện, hình thành, xây dựng những phẩm chất nhân cách cần thiết của quân nhân đáp ứng tốt với yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội. Những phẩm chất đó là: thói quen sinh hoạt có trật tự, kỷ cương; tác phong hoạt bát, nhanh nhạy; đức tính nhẫn nại, tỉ mỉ; ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm túc; tinh thần chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên một cách kịp thời, chính xác và sẵn sàng cơ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

Ba vấn đề trên có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện hiện nay. Trong đó, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là động lực; nâng cao chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại là trọng tâm; nâng cao chất lượng huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật là then chốt. Coi trọng và thực hiện đồng bộ cả ba vấn đề đó chính là cơ sở bảo đảm cho Quân đội ta thực hiện thắng lợi mục tiêu và nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.

*

*             *

             Sau 40 năm nhìn lại chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”; từ thực tiễn các cuộc chiến tranh do Mỹ và đồng minh của Mỹ gây ra từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay, chúng ta càng hiểu rõ hơn giá trị lịch sử to lớn chiến thắng vĩ đại này. Đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc ta trong thế kỷ 20, là trang sử vẻ vang của truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh. Chiến thắng đó đã cho chúng ta một bài học kinh nghiệm về sự tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu; bài học về tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện; bài học về xây dựng và phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; bài học về phát huy sức sáng tạo, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng kẻ thù; đó là bài học của sự quả cảm, khao khát độc lập tự do, xả thân chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” chúng ta có dịp ôn lại truyền thống hào hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam; qua đó, chúng ta càng tin tưởng, tự hào hơn về dân tộc ta, Đảng ta, Quân đội ta - một dân tộc đất không rộng, người không đông nhưng biết đoàn kết chống lại một kẻ thù hùng mạnh và đã làm nên những chiến thắng chấn động năm châu, lừng lẫy địa cầu. Một Đảng Mác xít kiên cường, luôn trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có đường lối đúng đắn, sáng tạo đã dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Một quân đội anh hùng, quân đội của dân, do dân, vì dân. Chúng ta tự hào về truyền thống bất khuất, kiên cường của dân tộc, lòng yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trước mọi kẻ thù xâm lược. Đó là cội nguồn sức mạnh, là nội lực của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hôm nay.

CỤC TUYÊN HUẤN