05:10, 07/10/2012

Các bộ, ngành trả lời kiến nghị của cử tri

Báo Khánh Hòa trích đăng trả lời của các bộ, ngành về một số vấn đề cử tri Khánh Hòa quan tâm.

Trước và sau kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII (từ 21-5 đến 21-6-2012), qua các buổi tiếp xúc cử tri trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã ghi nhận, tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ban Dân nguyện của Quốc hội đã tổng hợp ý kiến kiến nghị của cử tri cả nước và có văn bản đề nghị Chính phủ, các bộ ngành liên quan xem xét, trả lời, giải quyết. Các ý kiến, kiến nghị của cử tri Khánh Hòa đã được Chính phủ, các bộ ngành trả lời. Báo Khánh Hòa trích đăng trả lời của các bộ, ngành về một số vấn đề cử tri quan tâm.

1. Diêm dân trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa tiếp tục kiến nghị với Chính phủ xem xét lại việc nhập khẩu muối để đảm bảo tiêu thụ muối trong nước đồng thời đề nghị Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu việc sản xuất muối công nghiệp từ muối sản xuất trong nước để tránh nhập khẩu Muối công nghiệp.

Sản xuất muối năm nay gặp khó khăn do mưa nhiều.
Ảnh minh họa

Bộ Nông nghiệp và PTNT trả lời như sau :

Nhu cầu sử dụng muối hàng năm của cả nước khoảng từ 1,3 đến 1,5 tấn, trong đó muối sử dụng cho sinh hoạt của nhân dân trên 500.000 tấn, còn lại sử dụng trong  công nghiệp thực phẩm, công nghiệp hóa chất, thuộc da, chăn nuôi, y tế… Theo thống kê, sản lượng muối sản xuất trong nước bình quân trong 3 năm gần đây                           ( 2009-2011) đạt khoảng 950.000 tấn nên chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng muối trong nước cả về số lượng và chất lượng.

Để bảo hộ ngành sản xuất trong nước và hỗ trợ nông dân, diêm dân trước khi chuyển sang giai đoạn tự do hóa thương mại hoàn toàn đối với hàng nông sản, Việt Nam đã đạt được cam kết khi gia nhập WTO áp dụng cơ chế nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan một số loại nông sản trong đó có muối. Hàng năm trên cơ sở cân đối cung cầu, Bộ Công thương thống nhất với Bộ NN&PTNT lượng muối nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan, bảo đảm tuân thủ cam kết gia nhập WTO và nguyên tắc  điều hành nhập khẩu muối thận trọng trong từng thời điểm để bảo đảm hài hòa lợi ích của người dân; thực hiện kiểm tra chất lượng muối nhập khẩu, theo đó các loại muối nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu chất lượng quy định tại Thông tư 60/2011/TTr- BNNPTNT ngày 09/9/2011 của Bộ NN&PTNT.

Trên thực tế, theo cam kết WTO, năm 2011, công bố hạn ngạch thuế quan nhập khẩu muối là 102.000 tấn nhưng chỉ thực cấp 52.000 tấn; năm 2012 công bố hạn ngạch thuế quan nhập khẩu muối là 102.000 tấn và phân giao hạn ngạch thuế quan đợt 1 là  53.000 tấn nhưng đến nay mới chỉ thực cấp gần 2.000 tấn cho các doanh nghiệp sử dụng trong lĩnh vực y tế, số còn lại sẽ xem xét cấp tại thời điểm thích hợp. các doanh nghiệp có nhu cầu về muối sẽ sử dụng muối trong nước hoặc nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan. Do đó, từ đầu năm 2012 đến nay, giá muối trong nước luôn giữ mức hợp lý có lợi cho diêm dân ( ở các tỉnh miền Bắc giá từ 1.200đ – 1.700đ/ kg; ở Nam Trung bộ, giá từ 1.100đ- 1.200đ/kg, miền Nam giá từ 1.000đ-1.200đ/kg).

Về đầu tư sản xuất muối công nghiêp trong nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/1999/QĐ-TTg ngày 15/7/1999 về một số chính sách phát triển muối; Quyết định 161/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 phê duyệt Quy hoạch phát triển sản xuất muối đến năm 2015 và năm 2020.

Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chỉ đạo đầu tư dự án Khu kinh tế muối công nghiệp và xuất khẩu Quán Thẻ, quy mô 2.250ha; các dự án nâng cấp cải tạo cơ sở hạ tầng đồng muối, mô hình phát triển kinh tế- xã hội nông thôn vùng muối.

Đối với dự án Muối Quán Thể, Bộ đang tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ hoàn thành, bước đầu đã đưa vào sản xuất một phần. Đồng thời, Bộ tăng cường chuyển giao các tiến bộ khoa học công nghệ, phối hợp với các địa phương khuyến khích , hỗ trợ doanh nghiệp các thành phần kinh tế đầu tư, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng đồng muối đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản xuất muối công nghiệp có chất lượng cao.

2. Về ý kiến đề nghị xem xét lại chế độ cho Công an xã và Công an Phường vì có sự chênh lệch khá lớn giữa hai đối tượng này và xem xét tăng chế độ cho công an xã.

 Bộ Công an trả lời như sau :

  • Về vấn đề tăng chế độ cho Công an xã :

Trong những năm qua, Chính phủ, Bộ Công an và UBND các cấp rất quan tâm đến việc kiện toàn tổ chức, hoạt động của lực lượng Công an xã nhằm góp phần bảo đảm an ninh trật tự ở khu vực nông thôn. Về chế độ, chính sách đối với lực lượng Công an xã được quy định tại khoản 1,2,3, điều 14, Nghị định 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ như sau :

1. Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp. Mức phụ cấp cụ thể của từng chức danh do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định với mức không vượt quá hệ số 1,0 mức lương tối thiểu chung.

2. Ngân sách trung ương hỗ trợ các địa phương theo mức bình quân bằng 2/3 so với mức lương tối thiểu chung cho mỗi người hoạt động không chuyên trách.

3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định chức danh những người hoạt động không chuyên trách; mức phụ cấp cụ thể của từng chức danh; mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh; mức khoán kinh phí chi trả phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách theo loại đơn vị hành chính cấp xã, loại thôn, tổ dân phố phù hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này; quy định mức khoán kinh phí hoạt động của các đoàn thể ở cấp xã theo số lượng những người hoạt động không chuyên trách quy định tại Điều 13 Nghị định này bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.

Như vậy, căn cứ vào điều kiện thực tế, các địa phương thực hiện chế độ chính sách và chi trả phụ cấp cho lực lượng Công an xã khác nhau, nhưng chế độ, chính sách và phụ cấp đối với Phó Công an xã và Công an viên còn thấp so với tính chất đặc thù là lực lượng vũ trang bán chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở.

Ngày 10/5/2012, Ban Bí thư TW Đảng đã ban hành Quyết định số 91-QĐ/TW v/v thành lập Ban chỉ đạo TW xây dựng đề án về chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn và cán bộ về công tác ở địa bàn khó khăn trình Bộ Chính trị trong tháng 12/2012, trong đó có liên quan đến chế độ chính sách đối với công an xã. Thực hiện Kết luận số 23-KL/TW của Hội nghị lần thứ năm BCH TW Đảng khóa XII về “ Một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020” và sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công an đang phối hợp với Bộ Nội vụ, các bộ, ngành liên quan đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định 92/2009/NĐ- CP về chế độ, chính sách đối với lực lượng công an xã nhằm đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở.

  • Về vấn đề sự chênh lệch giữa chế độ của Công an xã và Công an phường :

Công an xã là lực lượng vũ trang bán chuyên trách thuộc hệ thống tổ chức của Công an nhân dân, làm nòng cốt trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn xã. Công an phường là lực lượng Công an chính quy, được hưởng lương và các khoản phụ cấp khác theo quy định. Công an xã và Công an phường cùng là một cấp trong hệ thống Công an nhân dân. Về chế độ chính sách của Công an xã và Công an phường do vị trí, chức năng và nguồn kinh phí để thực hiện khác nhau nên có sự chênh lệch về chế độ, chính sách giữa hai đối tượng này. Việc cử tri đề nghị, Bộ Công an xin tiếp thu và sẽ nghiên cứu, đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ đối với lực lượng Công an xã cho phù hợp nhằm bảo đảm sự tương quan chung.

3.  Về đề nghị bổ sung đối tượng hộ cận nghèo vào diện được vay vốn của Ngân hàng CSXH khi sửa Nghị định 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác,

 Ngân hàng Nhà nước trả lời như sau :

 Theo kết quả điều tra của Bộ LĐ,TB&XH ngày 28/3/2012, số hộ cận nghèo chiếm 6,98% tổng số hộ gia đình trong cả nước và bằng 59,2% số hộ nghèo, do vậy, việc ban hành chính sách cho vay ưu đãi với các hộ cận nghèo cần được nghiên cứu kỹ trên cơ sở cân đối các nguồn lực tài chính của Nhà nước và bảo đảm tính hiệu quả, phù hợp. Thực hiện Nghị quyết số 80/NQ-CP của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020, Ngân hàng Nhà nước đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo văn bản hướng dẫn cho vay đối tượng cận nghèo để gửi xin ý kiến các bộ, ngành liên quan trước khi trình Chính phủ quyết định.

4.  Về giải quyết chế độ cho nạn nhân chất độc màu da cam : Nhiều cử tri thuộc đối tượng là người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc màu da cam bày tỏ sự bức xúc trước những bất cập trong  việc thực hiện chính sách chế độ  trong thời gian vừa qua, -trong đó có vấn đề 17 bệnh liên quan đến chất độc màu da cam mà Bộ Y tế quy định là chưa đủ; một số bệnh được Hội nạn nhân chất độc màu da cam đề nghị nhưng không được xem xét.

Bộ Y tế trả lời như sau :

Thực hiện sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã phối hợp với các đơn vị chức năng xây dựng danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin. Ngày 25/01/2008, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký, ban hành Quyết định số 301/QĐ-BYT thành lập Hội đồng khoa học để thẩm định Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin để làm cơ sở xác nhận nạn nhân chất độc hóa học/dioxin.

Trong quá trình xây dựng danh mục bệnh tật này, Bộ đã tổ chức nhiều hội thảo, xin ý kiến đông đảo các nhà khoa hoạc, các chuyên gia trong và ngoài ngành y tế, tham khảo nhiều tài liệu khoa học trong và ngoài nước về tác hại của dioxin lên sức khỏe con người. Nguyên tắc để xây dựng Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin hoàn toàn dựa trên kết quả các công trình nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng của chất độc hóa học/dioxin lên sức khỏe con người đã được công bố ở trên thế giới và trong nước.

Hội đồng đã thận trọng rà soát, thẩm định từng bệnh, từng tên bệnh trong Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin. Căn cứ vào Biên bản cuộc họp ngày 31/01/2008 của Hội đồng khoa học, ngày 20/02/2008, Bộ trưởng Bộ Y tế  Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ban hành Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin.

Sau khi nhận được ý kiến của một số cử tri và của Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đề nghị Bộ Y tế xem xét, bổ sung một số bệnh, tật vào trong danh mục bệnh tật đã ban hành kèm theo Quyết định 02/2008/QĐ-BYT nói trên, ngày 25/01/2011, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký quyết định số 539/QĐ-BYT v/v “ thành lập Hội đồng chuyên môn sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin” . Hội đồng chuyên môn đã căn cứ vào các tài liệu khoa học có liên quan trong nước và quốc tế đã được công bố để rà soát và xem xét cơ sở khoa học, sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin. Qua quá trình nghiên cứu, theo các nhà khoa học y học Việt Nam, hiện nay, chúng ta chưa có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn để sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin. Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế tiếp tục nghiên cứu, khi có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, sẽ báo cáo Bộ trưởng Bộ Y tế để xem xét sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin.

Việc xếp loại bệnh nào nặng, nhẹ là hết sức khó khăn và không khả thi, căn cứ vào tình trạng bệnh tật và giai đoạn bệnh tật cụ thể của từng đối tượng để Hội đồng giám định y khoa khám giám định và kết luận bệnh, tật và mức độ suy giảm khả năng lao động.

Bộ Y tế đã yêu cầu các nhà khoa học thuộc các chuyên ngành biên tập và chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện tài liệu chuyên môn “ Hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin”. Ngày 04/5/2012, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký quyết định số 1488/QĐ-BYT phê duyệt Tài liệu này. Hiện nay, Bộ đang in để phát cho các Hội đồng giám định y khoa trong nước sử dụng trong công tác giám định.

5. Cử tri có ý kiến:  Hiện nay việc đóng bảo hiểm y tế ( BHYT) đã tăng nhiều lần nhưng việc khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT còn nhiều bất cập như : thời gian chờ đợi lâu, thủ tục rườm rà, thuốc của BHYT không chất lượng và một số thuốc đặc trị còn hạn chế. Cần tăng cường giáo dục y đức cho đội ngũ y bác sĩ trục tiếp  khám chữa bệnh cho các đối tượng BHYT.

Bộ Y tế trả lời như sau :

- Công tác khám chữa bệnh cho người tham gia BHYT luôn luôn được quan tâm, nhằm nâng cao chất lượng và đảm bảo quyền lợi người bệnh. Nhà nước đã có nhiều chương trình, dự án đầu tư phát triển hệ thống cơ sở khám chữa bệnh nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, trong đó có các đối tượng BHYT. Tuy nhiên, nhu cầu khám chữa bệnh và yêu cầu chất lượng ngày càng cao của nhân dân, Bộ sẽ tiếp tục nghiên cứu, đề nghị cấp có thẩm quyền quan tâm hơn nữa đến đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng với tình hình mới.

- Về quyền lợi của người tham gia BHYT, hiện nay, hầu hết các loại dịch vụ kỹ thuật, thuốc sử dụng trong khám chữa bệnh đều thuộc phạm vi chi trả của Quỹ BHYT. Việc sử dụng thuốc và dịch vụ y tế phụ thuộc vào tính chất bệnh tật và năng lực của các cán bộ y tế theo từng tuyến chuyên môn kỹ thuật đã được quy định.

- Về giáo dục y đức, đây là một vấn đề quan trọng không chỉ thuộc về chất lượng khám chữa bệnh mà còn thể hiện lương tâm, trách nhiệm của cán bộ y tế và lòng tin của nhan dân. Bộ Y tế đã ban hành và tiếp tục triển khai thực hiện chương trình 527/CTr-BYT về nâng cao chất lượng khám chữa bệnh đáp ứng sự hài lòng của người bệnh, cùng với thực hành quy tắc ứng xử của cán bộ nhân viên ngành y tế đồng thời với thực hiện phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh trong toàn ngành y tế.

6. Vừa qua, tình trạng thanh thiếu niên phạm tội hình sự diễn ra gây hoang mang, lo lắng cho xã hội. Cử tri kiến nghị cần tăng cường công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường lồng ghép với  chương trình giáo dục kỹ năng sống, áp dụng từ bậc tiểu học đến phổ thông trung học. Đồng thời tăng cường việc giáo dục pháp luật, đạo đức cho đội ngũ sinh viên, học viên các trường Cao đẳng, đại học, trung học để giáo dục và nâng cao ý thức đạo đức, ý thức tuân thủ pháp luật cho thanh thiếu niên.

Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời như sau :

Nhận thức được vài trò quan trọng trong việc giáo dục, hình thành nhân cách thế hệ trẻ, trong thời gian qua, ngành Giáo dục đã có nhiều giải pháp đổi mới về nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống học sinh, sinh viên cả trong các môn học chính khóa và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đồng thời đã chủ động phối hợp và huy động sức mạnh của toàn xã hội cùng tham gia giáo dục học sinh, sinh viên. Sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội đã được thực hiện tương đối hiệu quả, giúp các em nâng cao khả năng tự nhận thức, tự giáo dục, tự rèn luyện mình. Bên cạnh đó, còn kịp thời phát hiện và điều chỉnh những hành vi biểu hiện lệch lạc về tư tưởng, đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên. Một số giải pháp cụ thể đã và đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo thực hiện trong các nhà trường hiện nay là :

a/ Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy các môn học chính khóa

Bộ đã triển khai việc đánh giá nội dung, chương trình và hướng dẫn các nhà trường đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học Đạo đức, Giáo dục công dân và Pháp luật cho phù hợp với tình trạng thực tiễn. Bộ đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “ tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”  và triển khai thực hiện từ năm 2010. Từ học kỳ II, năm học 2009-2010, Bộ đã triển khai việc tích hợp giảng dạy nội dung “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “ vào nhà trường từ cấp mầm non, tiểu học, phổ thông đến các trường trung cấp chuyên nghiệp ( sinh viên các trường đại học, cao đẳng đã học thông qua giáo trình môn Tư tưởng Hồ Chí Minh )

b/ Tăng cường các hoạt động giáo dục ngoại khóa , ngoài giờ lên lớp:

Ngành giáo dục rất chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cho sinh sinh viên thông qua các hoạt động giáo dục ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp. Bộ đã ban hành và có hướng dẫn chi tiết thục hiện chương trình giáo dục ngoài giờ lên lớp, được thực hiện hàng năm phù hợp với trình độ học sinh theo từng chủ đề, thời gian cụ thể. Hình thức tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp được các nhà trường thực hiện sinh động, phong phú như tọa đàm, biểu diễn tiểu phẩm, đố vui… tạo không khí thi đua với các tập thể lớp và phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh tham gia.

c/ Đẩy mạnh phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”

Từ năm học 2010-2011, Bộ đã hoàn thiện bộ tài liệu hướng dẫn “ giáo dục kỹ năng sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục” và chỉ đạo giảng dạy tích hợp, lồng ghép trong các môn học chính khóa và các hoạt động ngoại khóa nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống xảy ra trong cuộc sống, rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống thân thiện , phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Bộ đã tổ chức tập huấn giáo viên cốt cán trên toàn quốc về việc sử dụng và triển khai bộ tài liệu trong các nhà trường trường. Hiện tại, Bộ đang hoàn thiện bộ công cụ đánh giá và biên soạn tài liệu hướng dẫn giáo viên tổ chức thực hiện việc đánh giá về kỹ năng sống của học sinh.

d/ Bên cạnh đó, Bộ đã chủ động phối hợp với các bộ ngành và các tổ chức đoàn thể như Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, TW Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHPN Việt Nam  trong công tác đảm bảo an ninh, trật tự trường học và giáo dục toàn diện học sinh.

Để có một chương trình tổng thể về giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, hiện tại Bộ đang nghiên cứu, xây dựng Đề án “ Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên” nằm trong nhóm các giải pháp thực hiện Chiến lược quốc gia về thanh niên giai đoạn 2011-2020 nhằm huy động các nguồn lực xã hội và phân công rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương để thực hiện tốt công tác này.

7. Hiện nay, giá vật tư, nhiên liệu tăng, gây khó khăn cho nhân dân, đề nghị có giải pháp mạnh trong kiềm chế lạm phát.

Nhân hàng Nhà nước trả lời như sau :

Bám sát chỉ đạo của Chính phủ về việc nhất quán mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, trong các tháng đầu năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt phù hợp với cân đối vĩ mô, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ, chính sách sách tài khóa để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra; chủ động phối hợp với các bộ ngành triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát. Vì vậy trong 8 tháng đầu năm 2012, lạm pháp chỉ tăng 2,86% so với cuối năm 2011.

8. Đề nghị hỗ trợ lãi suất trong nông nghiệp, tạo điều kiện giúp người dân vay vốn dễ dàng và tiếp cận với khoa học công nghệ, ứng dụng vào quá trình sản xuất nông nghiệp.

Ngân hàng Nhà nước ( NHNN) trả lời như sau :

Việc hỗ trợ lãi suất tiền vay đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là biện pháp cần hạn chế ở mức tối đa để tránh vi phạm các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Để khuyến khích hệ thống ngân hàng tập trung vốn và giảm chi phí cho vay nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ và NHNN đã ban hành nhiều cơ chế chính sách ưu đãi đối với các tổ chức tín dụng mở rộng cho vay lĩnh vực này. Trong đó, NHNN sáp dụng tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng VND thấp hơn so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường đối với các tổ chức tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn cao; hàng năm, dành lượng tiền cung ứng để tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn phù hợp với mục tiêu, biện pháp điều hành chính sách tiền tệ; các khoản cho vay tái cấp vỗn đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được NHNN ưu tiên về thời hạn và nguồn vốn cho vay vay so với các lĩnh vực khác; đồng thời khuyến khích các tổ chức tín dụng tập trung vốn cho vay nông nghiệp, nông thôn, nhất là chương trình xay dựng nông thôn mới, áp dụng cơ giới hóa, công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp.

Tính đến ngày 30/6/2012, mặc dù dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống các tổ chức tín dụng tăng không đáng kể nhưng dự nợ trong lĩnh vự nông nghiệp, nông thôn đã đạt 518.120 tỷ đồng, tăng 3,8% so với cuối năm 2011 và chiếm tỷ trọng 19,7% so với tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống./.