10:11, 04/11/2011

Khánh Hòa loại trừ thành công bệnh phong

Sau nhiều nỗ lực phấn đấu, đến nay Khánh Hòa đã đạt 4 tiêu chuẩn loại trừ bệnh phong theo tiêu chuẩn Việt Nam, gồm: tỉ lệ lưu hành bệnh phong dưới 0,2/10.000 dân (duy trì trong 3 năm); tỉ lệ phát hiện bệnh phong tại thời điểm kiểm tra dưới 1/100.000 dân;....

Sau nhiều nỗ lực phấn đấu, đến nay Khánh Hòa đã đạt 4 tiêu chuẩn loại trừ bệnh phong (BP) theo tiêu chuẩn Việt Nam, gồm: tỉ lệ lưu hành BP dưới 0,2/10.000 dân (duy trì trong 3 năm); tỉ lệ phát hiện BP tại thời điểm kiểm tra dưới 1/100.000 dân; tỉ lệ tàn tật độ 2 ở bệnh nhân phong (BNP) mới dưới 15%; kiểm tra kiến thức ngẫu nhiên trong cộng đồng có 20% người trả lời đúng. Như vậy, sau gần 30 năm thầm lặng, miệt mài “chiến đấu” với căn bệnh này, đến nay Khánh Hòa đã có thể vui mừng “tuyên bố” loại trừ thành công BP, hướng đến một xã hội không còn BP.

Một trong những đơn vị đi đầu trong công cuộc loại trừ BP là Bệnh viện Da liễu (BVDL) Khánh Hòa. Những năm 1982 - 1984, khi BVDL mới thành lập, công tác phòng, chống BP của tỉnh gặp rất nhiều khó khăn do BV thiếu nhân lực, thiếu thông tin về BP, chưa có mạng lưới phòng, chống BP từ tỉnh xuống huyện, xã. Trong khi đó, địa bàn hoạt động của BV lại rộng, chạy dài từ Sông Cầu (tỉnh Phú Yên ngày nay) đến Cam Ranh, khiến BV không bao quát nổi. Số liệu BNP thời điểm này cũng không được thể hiện trên báo cáo. Vượt lên trên mọi khó khăn, những năm 1985 - 1990, BV liên tục tổ chức các hoạt động triển khai chương trình thanh toán BP từng vùng cho các huyện, thị, thành phố trong tỉnh; tổ chức khám, phát hiện BNP tại cộng đồng dưới hình thức khám bệnh da toàn thân, lồng ghép tuyên truyền về BP; những ca nghi ngờ về BP được tập trung hội chẩn sau đợt khám. Giai đoạn này, tỉ lệ tàn tật độ 2 ở BNP rất nặng, tỉ lệ tàn tật ở BNP mới cũng rất cao do BN giấu bệnh vì sợ sự kỳ thị của xã hội. Những năm 1991 - 2000, hoạt động của BV thuận lợi hơn do lúc này tỉnh Phú Khánh đã tách thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, địa bàn hoạt động của BV thu hẹp lại, dễ kiểm soát hơn. Công tác phòng, chống BP giai đoạn này đã đi vào nề nếp. BNP mới phát hiện là có thuốc điều trị ngay. Năm 1994, BV hoàn thành điều tra cơ bản vòng 1 cho 127 xã, phường trong toàn tỉnh, trong đó có nhiều xã, phường được khám vòng 2, vòng 3. Năm 1995, chương trình phòng, chống BP được công nhận là chương trình mục tiêu y tế quốc gia, tạo thêm nhiều nguồn lực cho hoạt động phòng, chống BP. Từ năm 1996 - 2000, hoạt động phòng, chống BP được tăng cường trên mọi phương diện. Năm 1997, để đạt tiêu chuẩn loại trừ BP vào năm 2000, Viện Da liễu quốc gia đã tiến hành hội nghị tăng nhanh tốc độ loại trừ BP, tổ chức các chiến dịch LEC & SAPEL, áp dụng phác đồ đa hóa trị liệu 12 tháng đối với những tỉnh, thành có tỉ lệ BP cao, trong đó có Khánh Hòa. Về phía tỉnh, Ban chỉ đạo loại trừ BP cấp tỉnh, huyện cũng được thành lập và đi vào hoạt động. Bên cạnh đó, BVDL tiến hành chiến dịch LEC (loại trừ BP) trên quy mô toàn tỉnh.

Giai đoạn 2001 - 2010, với mục tiêu loại trừ BP vào năm 2005, BVDL đã cùng với mạng lưới chuyên khoa các huyện, thị có nhiều hoạt động như: Thường xuyên củng cố mạng lưới hoạt động chuyên khoa da liễu từ tỉnh đến các huyện, thị và trạm y tế xã, phường thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát và các lớp tập huấn nâng cao kỹ năng cho cán bộ chuyên khoa; duy trì giao ban với các huyện, thị mỗi quý một lần để giải quyết các vướng mắc tại cộng đồng. Mặt khác, triển khai các hoạt động sát với thực tế địa phương và cập nhật kiến thức cho các chuyên khoa da liễu phụ trách chương trình phòng, chống BP tại tuyến huyện, xã; tuyên truyền giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức thi đố vui kiến thức cơ bản về BP trong trường học, phát tờ bướm, tờ rơi, tờ thời khóa biểu…; thông qua các lớp tập huấn cho người tình nguyện, tập huấn cho đội ngũ y, bác sĩ đa khoa trong toàn tỉnh, nâng cao kiến thức cơ bản về BP, giúp phát hiện sớm BP khi chưa tàn tật. Công tác khám, phát hiện BP ở huyện, thị được lồng ghép trong các chương trình y tế chung vừa hiệu quả, vừa đỡ tốn kém về nhân lực và kinh phí.

Để giảm thiểu BNP tàn tật, giảm gánh nặng cho xã hội, năm 2004, BVDL tiến hành chiến dịch điều trị lỗ đáo (những vết loét sâu ở bàn chân BNP) tại cộng đồng với sự tài trợ của Tổ chức HI & OMF. Chiến dịch thành công đã góp phần làm thay đổi nhận thức của người dân đối với BP là tàn tật không thể điều trị được và làm thay đổi quan niệm của cộng đồng trong vấn đề tàn tật của BNP, giảm tối đa sự kỳ thị đối với BNP. Chiến dịch điều trị lỗ đáo tại cộng đồng vẫn được duy trì cho đến nay. Cũng trong năm 2004 - 2005, Tiến sĩ Trương Tấn Minh, Giám đốc Sở Y tế thực hiện đề tài nghiên cứu cấp tỉnh: “Hóa dự phòng cho những người tiếp xúc với BNP”. Năm 2007, Viện Da liễu quốc gia phối hợp với Giáo sư Cho (Hàn Quốc) tiến hành đề tài: “Điều trị dự phòng cho những người tiếp xúc với BNP” theo kết quả xét nghiệm PGL-1 tại thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh. Cả 2 đề tài đều dùng test PGL-1 để phát hiện những người nhiễm Mycobacteria không triệu chứng, sau đó dùng phác đồ ROM dự phòng. Kết quả số BNP mới giảm rõ rệt và những người dùng phác đồ ROM có kết quả PGL-1 dương tính đến nay không có ai mắc BP.

“Với những kết quả đạt được, có thể nói, công cuộc phòng, chống BP trên địa bàn tỉnh đã bước sang giai đoạn mới, giai đoạn duy trì kết quả nhằm đảm bảo Khánh Hòa là địa phương đã loại trừ thành công BP”, bác sĩ Nguyễn Thị Song Thanh, Giám đốc BVDL Khánh Hòa cho biết. Cũng theo bác sĩ Thanh, thời gian tới, để duy trì kết quả đã đạt được, BVDL sẽ triển khai một số hoạt động như: Duy trì hoạt động của các Ban Chỉ đạo
chương trình loại trừ BP cấp huyện và xã; đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục về BP trong các trường học và cộng đồng; khám phát hiện BNP mới lồng ghép trong các chuyên khoa khác hoặc khám theo cụm dân cư nơi có nhiều BNP mới và bệnh nhân nhóm MB. Bên cạnh đó, duy trì khám tiếp xúc ở nhóm BNP mới và BN đang giám sát; quản lý và điều trị BNP ở cộng đồng, theo dõi cơn phản ứng và phòng tránh tàn tật cho BNP; phục hồi chức năng cho BNP tàn tật thông qua chương trình chăm sóc lỗ đáo tại nhà và chuyển về BV những BN tàn tật có nhu cầu phẫu thuật chỉnh hình; duy trì hoạt động mạng lưới chuyên khoa từ tỉnh xuống huyện, hoạt động khám, phát hiện dựa vào cộng đồng và nhận thức của người dân. Ngoài ra, tập huấn kiến thức cơ bản về BP cho mạng lưới chuyên trách huyện, thị và xã, phường ít nhất 1 lần/năm; duy trì giao ban hàng quý tại BVDL đối với mạng lưới chuyên khoa; xã hội hóa thuốc điều trị và giày dép cho BNP thông qua bảo hiểm y tế người nghèo; phục hồi kinh tế cho BNP nghèo thông qua quỹ tín dụng nhỏ…

NGỌC KHÁNH