
Cùng với sự phát triển của ngành Tim mạch học trong cả nước, sau một thời gian chuẩn bị về cơ sở vật chất, nhân lực, từ tháng 2-2009, Bệnh viện Đa khoa Khánh Hòa chính thức triển khai đơn vị Tim mạch can thiệp trực thuộc Khoa Hồi sức cấp cứu...
Cùng với sự phát triển của ngành Tim mạch học trong cả nước, sau một thời gian chuẩn bị về cơ sở vật chất, nhân lực, từ tháng 2-2009, Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) Khánh Hòa chính thức triển khai đơn vị Tim mạch can thiệp (TMCT) trực thuộc Khoa Hồi sức cấp cứu với cơ cấu tổ chức ban đầu gồm 5 bác sĩ và 7 điều dưỡng chuyên trách TMCT. Sau hơn 2 năm đi vào hoạt động, đơn vị TMCT BVĐK tỉnh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc mở rộng chẩn đoán và điều trị bệnh lý tim mạch bằng ống thông qua da.
Bác sĩ Huỳnh Văn Thưởng, Phó Trưởng Khoa Hồi sức cấp cứu, Trưởng đơn vị TMCT BVĐK tỉnh cho biết, đến thời điểm này, đơn vị TMCT đã thực hiện các thủ thuật can thiệp tim mạch (CTTM) cho 672 lượt bệnh nhân (BN). Trong đó, BN nam chiếm 57%, nữ chiếm 43%, tập trung chủ yếu ở độ tuổi từ 60 - 79 tuổi (trẻ nhất là 28 tuổi và cao nhất là 92 tuổi). Cũng theo bác sĩ Thưởng, trong số BN được điều trị tại đơn vị, số lượt BN chụp mạch vành là 528 ca, can thiệp mạch vành 329 ca, chụp động mạch thận 38 ca, chụp động mạch chi 8 ca, đặt máy tạo nhịp 28 ca, bít dù còn ống động mạch 5 ca, bít dù thông liên nhĩ 5 ca. Chỉ định chụp mạch vành nhiều nhất ở nhóm BN đau thắt ngực không ổn định. Kết quả chụp mạch vành, tổn thương 1 nhánh chiếm 56,8% trường hợp, 2 nhánh chiếm 27,9% và 3 nhánh chiếm 15,3% trường hợp. Phần lớn sang thương thuộc tuýp B (khó, phức tạp). Số ca có chỉ định can thiệp (đặt stent + mổ bắc cầu động mạch vành) chiếm 78,3%, điều trị nội khoa chiếm 21,7%. Có 70,5% trường hợp chụp và can thiệp cùng lúc, 29,5% trường hợp can thiệp thì 2 (can thiệp sau chụp). Nhánh liên thất trước được can thiệp nhiều nhất với tỷ lệ 42%, sau đó là động mạch vành phải 29,3%, nhánh mũ 15,2%. Đặc biệt, các bác sĩ đã can thiệp thân chung động mạch vành trái 6 ca, tắc mạn tính 45 ca. Kỹ thuật đặt stent cổ điển áp dụng cho 48,6% trường hợp, đặt stent trực tiếp 14,3%, nong bóng sau đặt stent 32,5% và can thiệp bằng bóng phủ thuốc 17 ca, chiếm 4,6%. Quá trình thực hiện các thủ thuật đã xảy ra một số biến chứng. Trong đó, co thắt mạch vành 2 ca, biến chứng mạch máu 4 ca, shock do cường phế vị 2 ca, thủng mạch vành 3 ca (can thiệp tắc mạn tính), bóc tách sau đặt stent 3 ca, nhồi máu cơ tim sau can thiệp 3 ca và huyết khối bán cấp trong stent 3 ca do ngưng thuốc. Tất cả các ca biến chứng đều được điều trị kịp thời.
![]() |
| Một ca can thiệp nong mạch vành tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh. |
Phân tích các yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành trong số BN được điều trị tại đơn vị TMCT, bác sĩ Thưởng cho biết, nguy cơ thường gặp nhất là hút thuốc lá, tiếp đến là tăng huyết áp, sau đó là rối loạn chuyển hóa lipid và đái tháo đường. Từ thực tế trên, bác sĩ Thưởng khuyên mọi người nên thực hiện lối sống lành mạnh để giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Cụ thể là thực hiện 10 lời khuyên của Liên đoàn Tim mạch thế giới, gồm: Chế độ ăn uống hợp lý, khẩu phần ăn có nhiều rau xanh, trái cây, hạn chế ăn các chất béo bão hòa, không ăn mặn; tập thể dục thường xuyên mỗi ngày từ 30 - 60 phút; không hút thuốc lá, thuốc lào vì hút thuốc lá, thuốc lào là nguyên nhân trực tiếp gây nhồi máu cơ tim, đột quỵ và nhiều bệnh lý tim mạch khác; duy trì cân nặng hợp lý, giảm cân (nếu thừa cân) góp phần làm giảm huyết áp, giảm các biến cố do bệnh lý tim mạch gây nên. Ngoài ra, khám sức khỏe định kỳ để biết được số huyết áp động mạch, hàm lượng cholesterol, hàm lượng đường trong máu, chỉ số vòng eo/vòng mông, chỉ số khối cơ thể (BMI); hạn chế uống rượu, bia vì rượu, bia làm huyết áp và trọng lượng cơ thể tăng lên; tạo môi trường sạch sẽ, không có khói thuốc ở gia đình và công sở.
Nói về phương hướng hoạt động trong thời gian tới, bác sĩ Thưởng cho biết sẽ đề nghị ngành Y tế, BVĐK tỉnh bổ sung thêm nhân lực và trang thiết bị hỗ trợ như máy siêu âm tim tại phòng thông tim, siêu âm nội mạch, bóng dội ngược động mạch chủ, máy đo lưu lượng dự trữ động mạch vành… để hỗ trợ những trường hợp khó, bệnh nặng. Song song đó, đơn vị sẽ tiến hành nghiên cứu và theo dõi trên những nhóm bệnh lớn hơn để đánh giá chính xác chất lượng chẩn đoán, điều trị, từ đó rút ra những kinh nghiệm thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng điều trị.
KHÁNH QUỲNH





