10:05, 23/05/2014

Nguyên Hồ - Người thơ giờ đã về miền ca dao

Nhà thơ Nguyên Hồ là lớp hội viên Nhà văn Việt Nam đầu tiên trải qua 2 thời kỳ kháng chiến. Ông nguyên là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Phú Khánh. Sau thời gian lâm trọng bệnh, ông đã vĩnh biệt giới văn nghệ sĩ cả nước nói chung, Khánh Hòa nói riêng vào tối 14-3 tại Hà Nội, hưởng thọ 86 tuổi.

Nhà thơ Nguyên Hồ là lớp hội viên Nhà văn Việt Nam đầu tiên trải qua 2 thời kỳ kháng chiến. Ông nguyên là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Phú Khánh. Sau thời gian lâm trọng bệnh, ông đã vĩnh biệt giới văn nghệ sĩ cả nước nói chung, Khánh Hòa nói riêng vào tối 14-3 tại Hà Nội, hưởng thọ 86 tuổi. Bài viết muộn màng dưới đây thay nén hương lòng gửi viếng ông.


Năm 1991, may mắn thế nào tôi và nhà thơ Nguyên Hồ cùng đoạt giải nhì (không có giải nhất) tại Cuộc thi sáng tác văn học về thiếu nhi do Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa phối hợp với Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em tỉnh phát động. Điều ngẫu nhiên, chúng tôi còn là đồng hương Phú Yên. Từ đó tôi thân, quý mến và vô cùng kính trọng nhà thơ đàn anh Nguyên Hồ.


Ông lớn hơn tôi đúng 20 tuổi, vậy mà khi chuyện trò, ông một mực hòa đồng như bạn bè thân thiết. Ban đầu, tôi ái ngại, nhưng riết rồi quen. Nhà thơ tên thật là Hồ Công Hãn, sinh ngày 21-2-1929 tại Tuy Hòa - Phú Yên. Ngoài tài sáng tác thơ ca, ông còn vẽ tranh cổ động rất đẹp và hát bài chòi khỏi chê. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp ở Phú Yên, cây bút Nguyên Hồ nổi lên là người sáng tác ca dao hàng đầu của Liên khu 5, được công chúng nể phục, nhất là việc ứng khẩu sáng tác, phổ biến tại chỗ. Nhiều người còn nhớ, năm 1952, giặc Pháp muốn tiêu hủy, triệt phá sự sống vùng kháng chiến. Chúng thường xuyên cho máy bay ném bom đánh phá các công trình phục vụ sản xuất của nhân dân, như dội bom phá hại cầu máng, lù trầm ở phía kênh Bắc và kênh Nam thuộc hệ thống thủy nông Đồng Cam (Phú Yên). Nhằm động viên dân công ra sức khắc phục những hư hại này, kịp thời khôi phục sản xuất, ngay hiện trường, nhà thơ Nguyên Hồ đã ứng khẩu hô luôn bài chòi tại chỗ: Thằng Tây phá máng, phá lù/Nước mương trụt xuống căm thù trào lên. Cả công trường nhiệt liệt tán thưởng. Đối với những thanh niên biếng nhác, chưa giác ngộ, chưa tích cực trong phong trào phục vụ kháng Pháp, ông liền sáng tác: Ăn chình mới biết chình tanh/Gần anh mới biết rằng anh giống chình/Nhớt xương, nhớt thịt, nhớt mình/Đả thông chẳng được, phê bình chẳng nghe/Yêu anh hổ (thẹn) với bạn bè/Em về em quyết trả chè (trà), không ưng…

 

1
Nhà thơ Nguyên Hồ (bên phải) tại nhà riêng phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội (năm 2006).

 

Những tác phẩm chính của Nguyên Hồ đã xuất bản như: Áo rách tim vàng (truyện thơ, năm 1956); Nhắn nhủ đôi lời (tập ca dao, 1958); Yêu nhau xin nhớ lời nhau (tập ca dao, 1958); Cô gái Phú Yên (truyện thơ, 1963); Dân quân làng Triều (truyện thơ, 1965); Bài ca dâng Đảng (diễn ca); Ngọc càng mài càng sáng (diễn ca, 1970), Bài ca bốn ngàn năm lịch sử Việt Nam (sử ca, 1975); Cu Tý gặp Long Vương (truyện thơ, 1994); Cuộc đời và trang viết (thơ văn hợp tuyển, 2007).

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, ông tập kết ra Bắc, trải qua các công việc: Phó Chủ nhiệm Nhà xuất bản Phổ thông, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa Thông tin. Ông vừa làm công tác quản lý, lãnh đạo, vừa sáng tác với khối lượng lớn; trong đó nhiều nhất vẫn là ca dao, truyện thơ và diễn ca. Những năm sau ngày thống nhất Tổ quốc, ông về lại quê nhà, đảm trách vị trí Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Phú Khánh. Ông đã có nhiều công lao trong việc xây dựng phong trào văn học nghệ thuật địa phương và kiên trì thi pháp ca dao trong sáng tạo văn nghệ. Nói về sáng tác của ông, nhà văn Nguyễn Gia Nùng khẳng định: “... Câu thơ giàu bản sắc dân gian truyền thống, nhưng luôn luôn tươi mới” (Văn nghệ, ngày 2-7-2011).


Trong cuộc đời sáng tác văn học, ông từng đạt giải ở nhiều cuộc thi, giới văn nghệ cả nước còn gọi ông là “kiện tướng ca dao”. Vậy nhưng thi thoảng có những lão nông quê nhà gặp lại, chào Nguyên Hồ bằng cách đọc những câu ca dao ông từng sáng tác cách đây hơn nửa thế kỷ mà tác giả quên béng, làm ông cảm động và vui mừng khôn xiết. Nhà báo Đặng Minh Phương, người cùng thời với Nguyên Hồ cho rằng “ca dao của ông rất tự nhiên như lời ăn tiếng nói của nhân dân, lưu loát, giàu hình ảnh, rất dễ đi vào lòng người”. Còn sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận xét: “Nguyên Hồ là cây bút lão luyện ca dao hồi kháng chiến, nay vẫn dẻo dai và càng khởi sắc” (Tạp chí Văn học, tháng 7-1961). Bởi thế trước đây, trong giới bạn đọc cả nước đã hình thành câu ca truyền khẩu như đóng đinh tính cách những nhà sáng tác nổi bật ở các thể loại thời bấy giờ: Thơ Tố Hữu, nhạc Văn Cao/Nguyễn Tuân tùy bút, ca dao Nguyên Hồ”.


16 tuổi, Nguyên Hồ bắt đầu tham gia kháng chiến và cũng từ ấy ông sáng tác thơ ca. Nay 86 tuổi, trang viết cuộc đời Nguyên Hồ đã khép lại. Gần 70 năm cầm bút, nhà thơ Nguyên Hồ luôn hết lòng với công việc. Ông tạo ra một miền ca dao tươi đẹp vĩnh hằng trong lòng bạn đọc hôm qua, hôm nay và cả mai sau.


NGUYỄN TƯỜNG VĂN