
Khánh Hòa vừa vinh dự có 3 di sản được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, đó là lễ hội Tháp Bà Ponagar, lễ hội cầu ngư, lễ bỏ mả của người Raglai.
Khánh Hòa vừa vinh dự có 3 di sản được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (VH-TT-DL) công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể (VHPVT) cấp quốc gia, đó là lễ hội Tháp Bà Ponagar, lễ hội cầu ngư, lễ bỏ mả của người Raglai. Từ sự kiện này, nhìn về kho tàng VHPVT của xứ Trầm Hương, chúng ta thấy vẫn còn nhiều việc cần làm để bảo tồn và phát huy.
Đa dạng các loại hình
Qua hai năm (2011, 2012) thực hiện nhiệm vụ điền dã kiểm kê và lập lý lịch hồ sơ khoa học, lập biểu mẫu các loại hình di sản VHPVT trên địa bàn toàn tỉnh, các thành viên trong Ban chỉ đạo Kiểm kê khoa học di sản VHPVT tỉnh bước đầu đã lập được 2.707 hồ sơ thuộc 7 loại hình di sản VHPVT. Các loại hình này gồm: tiếng nói chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội; lễ hội truyền thống; nghề thủ công; tri thức dân gian.
![]() |
| Người dân dự lễ hội Tháp Bà Ponagar - một di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia vừa được công nhận. |
Tiếng nói chữ viết ở Khánh Hòa chủ yếu là hệ thống chữ Hán Nôm, câu đối được ghi trên các đình, lăng, tháp, chùa và chữ Phạn trên một số bia ký. Ngoài ra, còn có bộ chữ (la tinh) của tộc người Raglai do nhóm tác giả Trần Vũ, Chamaliaq Tiến thực hiện năm 1988, nhằm phục vụ cho đồng bào dân tộc Raglai và cán bộ công chức, viên chức hiện đang công tác ở hai huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và một số địa phương khác trong tỉnh. Ngữ văn dân gian bao gồm các thể loại thần thoại, truyền thuyết, sử thi, giai thoại, ca dao, tục ngữ, câu đối, bài chòi, hát dân ca (câu hò, điệu lý...). Đặc biệt là kho tàng sử thi Raglai hiện được xem là loại hình văn hóa tiêu biểu, đặc sắc, mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Raglai, phản ánh được sự đa dạng văn hóa và sáng tạo của con người, được kế tục, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nghệ thuật trình diễn dân gian có các loại hò, múa, sân khấu truyền thống. Tập quán xã hội có tục cưới hỏi, ở cữ, thôi nôi, đầy tháng, hoặc lễ mừng thọ, tục về nhà mới, tục cúng sao, giải hạn... Ngoài ra còn có một số tập tục, nghi lễ của tộc người Raglai, Ê đê, nghi lễ vòng đời, các tập tục ứng xử trong xã hội, với thiên nhiên. Trong Đại Nam nhất thống chí (phần tỉnh Khánh Hòa) có nhận xét: “Phong tục thuần hậu, tập quán quê mùa. Kẻ sĩ chất phác mà trầm tĩnh, nhân dân kiệm mà lành. Các việc đám cưới, đám ma hay giúp đỡ lẫn nhau’’. Lễ hội truyền thống gồm lễ hội đình làng, lễ hội miếu, lăng, lễ hội chùa và một số lễ hội tiêu biểu của tộc người Raglai, Ê đê như lễ bỏ mả, lễ ăn đầu lúa mới. Về nghề thủ công, cùng với sự phát triển cộng đồng cư dân người Việt, một số nghề đã ra đời tại các vùng nông thôn Diên Khánh, Ninh Hòa, Vạn Ninh, Nha Trang và vẫn duy trì cho tới nay. Việc hình thành các làng nghề thủ công bắt đầu từ lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính, nhằm phục vụ cho đời sống sinh hoạt cá thể sau đó mới tới cộng đồng. Theo thời gian, nhiều nghề thủ công đã thể hiện vai trò to lớn của nó, mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Tri thức dân gian đó là các loại hình y học cổ truyền chữa bệnh bằng thuốc nam; bí quyết chế biến ẩm thực... Đây là những tri thức được hình thành trực tiếp từ lao động sản xuất và sinh hoạt văn hóa, xã hội trong cộng đồng, nó được hoàn thiện dần từ đời này sang đời khác và được truyền thụ chủ yếu bằng miệng hoặc bằng tay trong các gia đình.
Hiện trạng các di sản văn hóa
Theo ông Trương Đăng Tuyến - Giám đốc Sở VH-TT-DL, Trưởng Ban chỉ đạo Kiểm kê khoa học di sản VHPVT tỉnh, việc thực hiện kiểm kê di sản VHPVT đã xác định được thực trạng của các loại hình văn hóa. Theo đó, tiếng nói chữ viết đang trong tình trạng mai một vì số lượng người biết viết chữ Nôm, chữ Hán ngày càng thưa vắng do chưa có biện pháp để gìn giữ, truyền dạy lại cho thế hệ sau. Về chữ viết của tộc người Raglai, số vốn từ còn hạn chế, chưa được nghiên cứu khai thác ở mức độ lớn nhằm lưu giữ trong cộng đồng các dân tộc Raglai. Ngữ văn dân gian hội đủ các yếu tố văn hóa rừng, biển đảo, đồng bằng, miền núi. Lượng văn hóa truyền thống ở đây rất đa dạng và phong phú, như hát kể, hát khan. Nghệ thuật trình diễn dân gian cũng đang bị mai một; thiếu lớp thế hệ trẻ để các nghệ nhân, nghệ sĩ truyền nghề, như hát bộ, tuồng cổ, dân ca bài chòi, nghệ thuật diễn xướng. Lễ hội truyền thống đang được duy trì và bảo lưu tốt, phát huy được giá trị trong đời sống của cộng đồng cư dân ở địa phương. Các loại hình, kinh nghiệm tri thức dân gian; tập quán xã hội được nhân dân địa phương gìn giữ và phát huy tốt. Làng nghề hoạt động gặp nhiều khó khăn trong phát triển cả về quy mô sản xuất và chất lượng. Tuy nhiên, để các làng nghề hồi sinh và phát triển bền vững, ngoài nỗ lực tự thân của các làng nghề, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần có giải pháp, cơ chế khuyến khích hỗ trợ đầu tư tích cực về vốn, thuế, đào tạo lao động.
“Để gìn giữ và phát huy giá trị các di sản VHPVT trên địa bàn tỉnh, chúng ta cần nâng cao nhận thức đối với các cấp, các ngành và chính quyền địa phương về những loại hình di sản VHPVT hiện có; quan tâm đầu tư phục hồi, gìn giữ và có chính sách khuyến khích các nghệ nhân; cử cán bộ xuống cơ sở khảo sát, ghi chép, xây dựng kế hoạch mở lớp để các nghệ nhân truyền dạy dân ca cho thế hệ trẻ. Các sở, ngành chức năng, chính quyền địa phương các cấp cần có cơ chế khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sưu tầm, lưu giữ, truyền dạy và giới thiệu VHPVT của tỉnh”, ông Trương Đăng Tuyến nói. Việc bảo tồn, gìn giữ VHPVT cần được thực hiện hàng năm với các hội nghị đánh giá và phổ biến kinh nghiệm thực hành trong công tác bảo tồn di sản VHPVT; tăng cường công tác tuyên truyền về bảo tồn di sản VHPVT; gắn việc bảo tồn di sản VHPVT với người dân.
NHÂN TÂM





