11:12, 21/12/2012

Những người quay phim năm ấy...

Đã 40 năm trôi qua, nhưng ký ức về 12 ngày đêm ác liệt của “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” vẫn vẹn nguyên trong tâm tưởng đạo diễn Phạm Việt Tùng và nhà quay phim Phạm Khắc Thảnh. Một ngày đầu tháng 12, chúng tôi đã có dịp gặp họ để nghe kể về những ngày hào hùng ấy.

Đã 40 năm trôi qua, nhưng ký ức về 12 ngày đêm ác liệt của “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” vẫn vẹn nguyên trong tâm tưởng đạo diễn (ĐD) Phạm Việt Tùng và nhà quay phim (NQP) Phạm Khắc Thảnh. Một ngày đầu tháng 12, chúng tôi đã có dịp gặp họ để nghe kể về những ngày hào hùng ấy.

Tuổi đều đã ngoài thất thập, nhưng ôn lại kỷ niệm về những ngày đêm lăn lộn giữa bão lửa để quay được những cảnh phim về máy bay B52 cháy, về khí thế chiến đấu anh dũng của quân dân ta cũng như tội ác tày trời của đế quốc Mỹ..., cả ĐD Phạm Việt Tùng và NQP Phạm Khắc Thảnh (hiện ở Nha Trang) vẫn ngỡ như chuyện mới xảy ra hôm qua.

Lăn lộn trên các chiến trường

1
Đạo diễn Phạm Việt Tùng tác nghiệp trong 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”.

Thời điểm đó, cả ĐD Phạm Việt Tùng và NQP Phạm Khắc Thảnh đều thuộc tổ Thời sự chính trị của Đài Truyền hình Việt Nam. Lúc ấy, lực lượng quay phim chỉ vẻn vẹn 12 người, lại phải rải đều khắp các trận tuyến ở Hà Nội và các tỉnh, thành phố khác. Nhóm của ĐD Phạm Việt Tùng được giao nhiệm vụ trực chiến trên các nóc nhà cao tầng để quay cảnh máy bay cháy trên bầu trời Hà Nội; còn nhóm của NQP Phạm Khắc Thảnh được cử xuống TP. Hải Phòng. “Khi Mỹ lật lọng ở Hội nghị Paris, mọi người đều linh cảm sắp có đánh lớn ở Hà Nội. Lãnh đạo Đài đã yêu cầu tất cả biên tập viên và NQP phải thường xuyên có mặt tại cơ quan để sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Máy quay, phim, ô tô luôn túc trực. Chúng tôi cũng tự tạo cho mình tâm lý trực chiến y như bộ đội để sẵn sàng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”, ĐD Phạm Việt Tùng nhớ lại.

1
Đạo diễn Phạm Việt Tùng trong lần trở lại trận địa phòng không nơi ông đã quay nhiều thước phim về 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”.

ĐD Phạm Việt Tùng đã đi thị sát từng địa điểm có thể tác nghiệp. Vị trí đứng quay phải đáp ứng được nhiều yêu cầu như: không bị cây cối, nhà che khuất; gần vị trí trú ẩn để có thể nhanh chóng lên tác nghiệp. “Sau nhiều ngày đi khắp phố phường Hà Nội, cuối cùng, tôi chọn được sân thượng của Khách sạn Hòa Bình trên phố Lý Thường Kiệt. Gần đó, có nhà thờ của những người theo đạo Cao Đài có thể trú ngụ được, rất thuận tiện để lên vị trí quay phim”. Trong điều kiện thiếu thốn lúc đó, ĐD Phạm Việt Tùng là một trong 2 NQP được sử dụng máy quay tốt nhất, hiện đại nhất của Đài. “Được sự quan tâm của lãnh đạo Đài, tôi tự đặt ra mục tiêu phải quay được cảnh máy bay B52 cháy trên bầu trời Hà Nội. Hình ảnh ấy phải đủ nét để người xem thấy được cảnh đế quốc Mỹ bị “nốc-ao” ngay trên đất Thủ đô của chúng ta”. Mục tiêu đó đã thành hiện thực vào một đêm cuối tháng 12-1972, khi ông đang cùng phụ tá tác nghiệp trên sân thượng. Khi thấy máy bay B52 cháy, không kịp chỉnh máy, ông vội cầm máy lia theo một khối lửa khổng lồ bốc cháy giữa đêm tối. Sáng hôm sau, khi cuộn phim được in tráng xong, ông vui mừng đến òa khóc khi thấy cảnh phim đã được ghi lại chân thực, sắc nét giây phút hào hùng đó. Đó là hình ảnh đầu tiên, có giá trị về sử liệu, ghi lại thắng lợi ban đầu của quân, dân Hà Nội trong những ngày “bom rơi, ngói tung, gạch nát”.

1
Cảnh máy bay B52 cháy trên bầu trời Hà Nội do ĐD Phạm Việt Tùng quay.

Với NQP Phạm Khắc Thảnh, ngay tối 18-12-1972 (thời gian Mỹ bắt đầu tập kích ồ ạt), ông được phái xuống TP. Hải Phòng để ghi lại cảnh thành phố cảng trong những ngày ác liệt đó. Hải Phòng lúc đó được mệnh danh là yết hầu của miền Bắc, bởi tất cả hàng hóa viện trợ đều được nhập qua đây. Chính vì thế, Hải Phòng cũng là một trọng điểm đánh phá của không lực Hoa Kỳ. Các cơ sở như Nhà máy Đóng tàu Bạch Đằng, Nhà máy Xi măng Hải Phòng, kho xăng dầu... đều bị đánh phá ác liệt. “Xuống đến Hải Phòng, trước mắt chúng tôi là cảnh đổ nát, ngổn ngang. Phải khó khăn lắm, chúng tôi mới tìm được đường vào thành phố. Sang ngày 19-12-1972, người dân Hải Phòng bắt đầu sơ tán. Chúng tôi vừa quay cảnh sơ tán, vừa đến các trận địa phòng không để quay cảnh chiến sự. Hàng loạt hình ảnh cần ghi lại”, NQP Phạm Khắc Thảnh chia sẻ. Với chiếc máy quay Beija Bolex, ông đã đi đến nhiều trận địa khác nhau như: Bàng La (Đồ Sơn), chợ Tổng (Núi Đèo), trận địa pháo của nữ dân quân Hải Phòng, tự vệ Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng... Cứ sau 2 ngày quay ở Hải Phòng, ông lại về Hà Nội để in tráng phim và nhận phim mới. Trong một đợt như thế, ông đã quay được cảnh căn hầm trú ẩn của 1 lớp mẫu giáo ở khu vực bãi An Dương (khu Ba Đình cũ) bị đánh sập. Cảnh phim với hình ảnh hơn 50 em nhỏ bị thiệt mạng ở tư thế như đang nằm ngủ đã gây xúc động mạnh đối với người xem và là bằng chứng xác thực tố cáo tội ác của kẻ thù. “Khi quay cảnh tượng đau lòng đó, tôi đã phải tự nhủ mình không được mềm yếu để có thể ghi lại một cách tốt nhất tội ác của quân thù. Nhưng sau khi in tráng và xem lại, tôi đã không cầm nổi nước mắt…”.

Ghi lại những bằng chứng lịch sử

1
Ông Phạm Khắc Thảnh (hàng sau, thứ ba từ phải qua) trong lần gặp gỡ thiếu nhi tại Trường Sĩ quan Không quân.

Tâm sự về những ngày phải đối mặt với ranh giới giữa sự sống và cái chết; theo sát bộ đội, đối diện với bom đạn quân thù để tác nghiệp, ĐD Phạm Việt Tùng chia sẻ: “Chúng tôi quay phim trên nhà cao tầng, mảnh đạn rơi ngổn ngang trên mái mà người quay phim lại không thể đội mũ sắt nên càng nguy hiểm. Thực lòng, nhiều lúc chúng tôi cũng sợ, nhưng nỗi sợ của bản thân không lấn át được danh dự của dân tộc, danh dự nghề nghiệp”. Cũng nhờ đó, ngày nay chúng ta có được cảnh máy bay B52 cháy trên bầu trời Hà Nội với tiền cảnh là cột ăng ten của Đài Tiếng nói Việt Nam, hay cảnh Bệnh viện Bạch Mai tan hoang sau trận bom, cảnh những em thơ thiệt mạng vì bom địch ngay trong hầm trú ẩn, cảnh khu dân cư Khâm Thiên tan nát, cảnh bộ đội phòng không chiến đấu mưu trí, dũng cảm… để hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh cũng như tinh thần chiến đấu anh dũng của quân, dân ta. Trong bài viết “Hà Nội cuộc đọ sức năm ngày” đăng trên Báo Văn nghệ số ra đầu năm 1973, tác giả Thường Quý nhận định, những thước phim của ĐD Phạm Việt Tùng và NQP Phạm Khắc Thảnh là minh chứng của lịch sử. Bài báo có đoạn: “Tháp Đài vô tuyến truyền hình hiên ngang nổi bật trên nền trời và lọt vào khuôn hình máy quay cùng với quầng sáng B52 cháy. Việt Tùng chớp thời cơ bấm máy. Bây giờ thì tang chứng đã nằm gọn trong phim... Nó như một minh chứng của lịch sử…”. “…Hình ảnh các cháu bé bị giết ngay trong giấc ngủ do Phạm Khắc Thảnh quay đã để lại những ấn tượng không bao giờ phai mờ... Mọi người lặng hẳn đi, uất nghẹn. Người ta tự hỏi, những giọt nước mắt mà Ních-xơn nhỏ trên mộ Tanhia là nước mắt gì?”

Ngay sau trận chiến “Điện Biên Phủ trên không”, ĐD Phạm Việt Tùng đã cho ra đời một bộ phim tài liệu với tên gọi “Hà Nội - Điện Biên Phủ” nói về những ngày hào hùng của quân, dân Thủ đô. Bộ phim đã nhận được giải thưởng lớn nhất về báo chí tại liên hoan phim tổ chức ở Thụy Sĩ năm 1973.

Sau đó, rất nhiều cảnh quay trong các bộ phim tài liệu về 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không” đều sử dụng hình ảnh tư liệu của ĐD Phạm Việt Tùng và NQP Phạm Khắc Thảnh. Đến giờ, hai ông cũng không nhớ hết những thước phim mà mình đã quay. Hầu hết các thước phim tư liệu về “Điện Biên Phủ trên không” đều được quay ở trận địa Chèm (Từ Liêm - Hà Nội), tái hiện hoạt động chính của Tiểu đoàn Phòng không 77. Theo ĐD Phạm Việt Tùng, lúc đó, trận địa Chèm được xác định là nơi đối đầu giữa ta và địch khốc liệt nhất. Đây là trận địa mà đồng chí Lê Hiến Mai, lúc đó là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, đã hướng các NQP, nhà báo đến tác nghiệp.  

Vĩ thanh

Sau sự kiện 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”, ĐD Phạm Việt Tùng và NQP Phạm Khắc Thảnh đều vác máy quay, lên đường vào Nam, theo chân các đơn vị bộ đội tiến vào giải phóng Sài Gòn. Đất nước thống nhất, ĐD Phạm Việt Tùng chuyển sang lực lượng an ninh, còn NQP Phạm Khắc Thảnh về công tác tại Đài Phát thanh - Truyền hình Khánh Hòa. Sau khi nghỉ hưu, ĐD Phạm Việt Tùng đã chọn TP. Nha Trang để sinh sống. Ông đã đóng góp cho thành phố biển với việc hoàn thành 2 bộ phim tài liệu: Trái tim ông Năm và Bác sĩ Kiều Xuân Cư.

NHÂN TÂM