Đúng ngày này 70 năm trước (28-1-1941 – 28-1-2011), Bác Hồ đã trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước. Bác về đúng mùa Xuân và mang “mùa Xuân” về cho cả dân tộc Việt Nam.
Đúng ngày này 70 năm trước (28-1-1941 – 28-1-2011), Bác Hồ đã trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước. Bác về đúng mùa Xuân và mang “mùa Xuân” về cho cả dân tộc Việt Nam.
Mùa Xuân năm 1941, Pác Bó tự hào được đón Bác Hồ tại cột mốc 108 biên giới Việt - Trung. Thiên nhiên nên thơ, cảnh vật trữ tình chan chứa niềm vui chào đón Người: Ôi! Sáng xuân nay, xuân bốn mốt/Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/Bác về… im lặng. Con chim hót/Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ” (Tố Hữu). Cùng về với Bác còn có các đồng chí: Phùng Chí Kiên, Lê Quảng Ba, Hoàng Văn Lộc, Thế An, Đặng Văn Cáp. Chuyện kể lại, sau khi đến cột mốc 108, Bác đã dừng lại, cúi đọc những chữ khắc trên cột mốc rồi hướng mắt nhìn đất nước quê hương. Cảm xúc dâng tràn của Người khi lại được đặt chân lên mảnh đất quê hương đã được nhà thơ Tố Hữu ghi lại bằng những dòng thơ dạt dào cảm xúc: Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!/Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người/Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ/Mà đến bây giờ mới tới nơi.
Bác Hồ về nước (ảnh tư liệu). |
Pác Bó, tiếng địa phương có nghĩa là đầu nguồn nước. Nơi ấy có dòng suối lớn, nước trong vắt, thoát ra từ hang đá lớn, Bác đặt tên là suối Lê-nin. Hang đá Bác ở nằm trên một ngọn núi đá cao, Bác đặt tên là núi Các Mác. Ngày đầu tiên, đồng chí Lê Quảng Ba đưa ông ké (tiếng địa phương có nghĩa là cụ già - là cách gọi Người thân mật của người dân Pác Bó) về nghỉ tại nhà ông Lý Quốc Súng - dân tộc Nùng. Sáng sớm hôm sau, ông Lý dẫn ông ké và mấy anh em cán bộ lên hang Pác Bó. Trước cảnh sắc một sáng Xuân của Tổ quốc, Bác khe khẽ ngâm bài thơ mới sáng tác: Non xa xa nước xa xa/Nào phải thênh thang mới gọi là/Đây suối Lê-nin, kia núi Mác/Hai tay gây dựng một sơn hà. Tại Pác Bó, Bác tự sắp xếp nơi nằm nghỉ, chỗ nấu cơm, chốn câu cá lúc nhàn rỗi, chỗ đun nước uống, kê đá làm bàn ngồi dịch lịch sử cách mạng Liên Xô thành tài liệu huấn luyện cán bộ cách mạng… Từ đó, ở khu Pác Bó có một ông ké, thường ngày mặc bộ quần áo chàm, quần xắn cao, tay cầm gậy, bước đi nhanh nhẹn nhưng ung dung, thoải mái, vui vẻ tiếp các cán bộ về thỉnh thị và báo cáo. Tả cảnh Pác Bó lúc bấy giờ, Bác có thơ: Chung quanh xanh ngắt một màu/Hoa chen, lá phủ, trên đầu bóng cây/Chim từng lũ, thú từng bầy/Thú kêu inh ỏi, chim bay là đà/Giọng khe róc rách dưới nhà/Bên tường cảnh vẽ bức hoa bên mình. Tâm hồn Bác luôn lạc quan với cuộc sống gian khó: Sáng ra bờ suối tối vào hang/Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng/Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng/Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Sau hơn 1 tháng ở hang Pác Bó, để thuận cho đi lại, đồng thời đảm bảo an toàn khi có động, Bác chuyển cơ quan sang lán ở Khuổi Nặm (nghĩa là suối nước). Tại đây, Bác triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5-1941), đề ra chủ trương, nhiệm vụ mới cho cách mạng Việt Nam, hoàn chỉnh đường lối giải phóng dân tộc. Đây là hội nghị có tầm quan trọng, quyết định đường lối chính sách của Đảng, đặt vấn đề giải phóng dân tộc thành nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng các căn cứ địa cách mạng và phát triển các lực lượng vũ trang, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Từ đây, phong trào cách mạng ngày càng lan rộng trong chiến khu Việt Bắc.
70 mùa Xuân đã qua kể từ ngày Bác về nước năm 1941. Cũng chừng ấy thời gian, phong trào cách mạng dưới sự dìu dắt của Người không ngừng lớn mạnh; sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước đi theo con đường CNXH có những bước tiến vượt bậc. Và hôm nay, Việt Nam đã phần nào sánh ngang cùng bạn bè năm châu. Mùa Xuân năm ấy - Xuân 41 - Bác về, để từ đó đến nay, đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam không ngừng phát triển như chính lời thơ của Người: Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua…
NHÂN TÂM