
Hơn 10 năm trước, thời còn ngồi trên ghế giảng đường của khoa Ngữ văn, cái lối thơ siêu thực, thơ tượng trưng đầy chất bí ẩn của Hoàng Cầm đã cuốn hút tôi và nó trở thành đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của tôi.
Hơn 10 năm trước, thời còn ngồi trên ghế giảng đường của khoa Ngữ văn, cái lối thơ siêu thực, thơ tượng trưng đầy chất bí ẩn của Hoàng Cầm đã cuốn hút tôi và nó trở thành đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của tôi. Gần nửa năm miệt mài chọn lọc và nghiền ngẫm 156 bài thơ hay nhất của ông, chất hư ảo, bồng bềnh trong thơ ông cũng “thấm” vào tôi một thời. Để rồi hơn 10 năm sau, cảm xúc một thời ấy chợt trào dâng trong tôi khi hay tin người con của đất Kinh Bắc ấy đã từ giã thơ - thứ mà với ông đó là “tinh túy cõi thật người”.
![]() |
| Nhà Thơ Hoàng Cầm |
Nhắc đến Hoàng Cầm, người ta thường nhắc đến 2 bài thơ nổi tiếng của ông, đó là Bên kia sông Đuống và Lá Diêu Bông. Bên kia sông Đuống được đưa vào chương trình giảng dạy ở bậc học phổ thông; còn Lá Diêu Bông thì trở thành một hình tượng nghệ thuật và hình tượng đó luôn gắn với cuộc đời ông, khát vọng của ông. Bài thơ được sáng tác vào năm 1954, trong một đêm khuya tĩnh lặng ở Hà Nội. Thật ra, nó là những kỷ niệm ăn sâu trong ông rồi bật ra thành thơ. Lá Diêu Bông chẳng phải là một thứ lá cụ thể nào, mà là chiếc lá chỉ có trong tâm tưởng của Hoàng Cầm. Ông mượn hình ảnh lá diêu bông để nói đến “bi kịch” của ông, nói đến mâu thuẫn giữa ước mơ và hiện thực, đến khát vọng không bao giờ đạt tới của con người. Bài thơ này sau đó đã được nhạc sĩ Nguyễn Tiến phổ nhạc thành bài hát Chuyện tình lá diêu bông; nhạc sĩ Trần Tiến cũng mượn hình ảnh, ý tứ của bài thơ để đưa vào trong nhạc phẩm Sao em nỡ vội lấy chồng…
Thật ra, nếu đánh giá một cách xuyên suốt thì thơ Hoàng Cầm nổi bật lên ở 2 điểm mà Bên kia sông Đuống và Lá Diêu Bông là 2 đại diện. Thứ nhất, thơ ông là một thứ thơ hướng nội ở độ sâu thẳm nhất, nó đi hẳn vào cõi tiềm thức, vô thức và diễn tả bằng chính ngôn ngữ mông lung vô thức. Bản thân ông cũng tự nhận mình thường chìm vào tiềm thức để cho ngòi bút tự tuôn chảy, không bố cục, không cấu tứ gì cả, đến từ ngữ cũng tự nhiên bật ra theo dòng chảy cảm xúc. Lá Diêu Bông là một ví dụ: Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng/Chị thẩn thơ đi tìm/Đồng chiều chiều/Cuống rạ… Nhà thơ đã hư ảo hóa những hình ảnh thơ làm cho nó trở nên mơ hồ, ngôn ngữ thơ vì thế cũng chênh vênh vô định, cái thực nhòa trong cái ảo. Chính vì thế, thơ ông rất dễ cảm, song không dễ hiểu, không dễ nắm bắt. Nói cho cùng, ông cũng chỉ là một người đi tìm những cái mà mình chưa có, những cái mà ông gọi là “những khát vọng người”. Và ông nhận thấy, từ những khát vọng người ấy, thơ “bật ra như một điệu đàn, như một hình bóng, bất chợt”, “thơ xới đất lên cho mùa gieo hạt”, “thơ nối yêu thương vào khát vọng”, “thơ cho ta được yêu, biết yêu, biết đau và chịu đau”. Bởi một lẽ thật đơn giản như ông đã nói: “Vì thơ là tinh túy cõi thật người”.
Thứ hai, đó là chiều sâu văn hóa Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm. Ông tự nhận mình: Tôi làng người quan họ/quê mẹ bên này sông/cách quê cha một sòng sông nước trắng/… (Tiếng hát quan họ, khúc 1). Hoàng Cầm là một người con vùng Kinh Bắc, vì thế, cái đất, cái chất, cái hồn của miền đất này ăn sâu trong máu thịt ông. Kinh Bắc là cái nôi văn hóa của dân tộc, cũng là cội rễ của tâm hồn ông. Nó ám ảnh trong thơ, trong tâm tưởng ông, cũng là nơi dẫn dắt, khơi nguồn cho mạch cảm xúc của thơ ông. Hầu như bài thơ nào của ông cũng khơi dậy một cái gì đó rất Kinh Bắc, từ cái thế nằm “nghiêng nghiêng” của con sống Đuống cho đến cây đa, bến sông, ổ rơm, hội đình hội đám… Dòng chảy thơ ông hướng về một nền văn hóa Kinh Bắc cổ kính và trù phú với những hội hè, đình đám truyền thống: hội Gióng, hội Phù Khê; với những làng nghề truyền thống: tranh Đông Hồ, the Hà Đông, phẩm Huệ; với những vẻ đẹp đặc trưng của khói Yên Thế, sương Cầu Lim, váy Đình Bảng…: Về đây/Ta đón xuống lòng tay ấm lạnh giếng thơi/Vắt giọt giọt mồ hôi từ tóc rậm vua Hùng thứ nhất/Vắt giọt giọt sữa dâng từ ngực vồng Trưng Triệu ra quân/Xõa mái tóc người con gái quê gội hương nhu/…Tiếng võng ru con đi mãi bốn nghìn năm tiếng hát Bát Tràng thu… (Gọi men). Tất cả như bất tử trong tâm tưởng và trong cả thơ ông. Có lẽ nhờ việc nhập hồn thơ mình vào chiều sâu của văn hóa Việt mà thơ ông được đánh giá như một điệu quan họ, mang giọng điệu quan họ từ trong bản chất và điệu hát cứ như vậy vút lên không cùng.
Giờ đây, nhân vật trữ tình, hình tượng “Em” được viết hoa trong bài thơ Lá Diêu Bông ấy đã về phía “bên kia sông Đuống”. Tiếc cho ông khi không thể đợi đến giây phút cuốn hồi ký về mình được xuất bản, nhưng dẫu sao ông cũng đã “ngủ lại” được trọn vẹn “giấc mơ dang dở” của mình, cũng đã trả được món nợ thơ trong suốt một đời mình.
GIAO HƯỞNG
Nhà thơ Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh 1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; quê gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Các tác phẩm tiêu biểu của ông: Kiều Loan (kịch thơ), Hận Nam Quan (kịch thơ); các tập thơ: Mưa Thuận Thành, Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông, Về Kinh Bắc, 99 tình khúc, Thơ tình Hoàng Cầm. Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Do tuổi cao, sức yếu, lúc 9 giờ 30 ngày 6-5, ông đã từ trần tại Hà Nội.





