09:02, 07/02/2008

Có một Lê Bá Dương - Nhà thơ

Nhiều người biết về Lê Bá Dương với tư cách một nhà báo, một nghệ sĩ nhiếp ảnh (NSNA) có tiếng ở xứ Trầm Hương...

Nhà báo Lê Bá Dương và các đồng đội thả hoa trên dòng sông Thạch Hãn.

Nhiều người biết về Lê Bá Dương với tư cách một nhà báo, một nghệ sĩ nhiếp ảnh (NSNA) có tiếng ở xứ Trầm Hương. Riêng tôi, tôi muốn nhìn nhận anh dưới góc độ một nhà thơ theo nghĩa đích thực, bởi những vần thơ anh viết đã chạm vào đáy sâu tâm hồn con người, làm bật lên những cảm xúc chân thành.

Lê Bá Dương làm thơ từ bao giờ chẳng ai biết, chỉ đến một ngày, mấy câu thơ anh viết để viếng những người bạn bên sông Thạch Hãn in trên báo thì mọi người mới nhận ra Lê Bá Dương có một tâm hồn thi sĩ. Thực ra Lê Bá Dương đã làm thơ từ những ngày ở chiến trường, nhưng do thơ không đăng báo nên ít người biết đến. Bài thơ Cha con được anh viết nhân một cuộc gặp mặt của 2 cha con người lính quê ở Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh năm 1969: Xưa cha đi đánh Pháp/Con còn nhỏ chạy nhìn theo/Nay mái tóc hoa râm vui vành mũ tai bèo/Cha gặp con giữa chiến hào đánh Mỹ/Nghĩa nặng tình sâu, cha gọi con là đồng chí…/Bỗng vang lên một phát súng trường/Con vừa bắn theo hướng đường cha chỉ/Hai cha con cùng cười khi bóng tên giặc Mỹ/Phải gục đầu vì hai thế hệ cha - con. Bài thơ không chỉ diễn tả một tình huống hi hữu trong chiến tranh mà hơn thế còn thể hiện được truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, các thế hệ nối tiếp nhau chống giặc ngoại xâm. Năm 1972, khi chuẩn bị vào sâu mặt trận phía Nam, cô bé trong nhà dân chợt hỏi Lê Bá Dương: Chú ơi, tại sao gọi là quân giải phóng Bắc Quảng Trị, lại nói là lính “cơm Bắc, giặc Nam”? Vội hành quân, anh lấy bút viết vào trang vở học trò của cô bé 2 câu thơ, cũng là 2 vế đối vẽ trọn chân dung người lính ở vùng đất lửa: Một khẩu súng giữ hai trời Nam Bắc/Một dấu chân in màu đất hai miền. Mới đây, nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng Quảng Trị, “cô bé ngày xưa” (bây giờ đã là cựu du kích) trao lại cho Lê Bá Dương tờ giấy kẻ ngang đã úa vàng có 2 câu thơ ngày xưa vẫn xanh màu mực Cửu Long. Bài thơ ngắn ấy được NSNA Đoàn Công Tính gọi là lời tuyên ngôn bằng thơ hay nhất về quân giải phóng Bắc Quảng Trị.

Trò chuyện với tôi, Lê Bá Dương nói anh không có ý định sáng tác, những bài thơ anh làm chỉ để ghi lại cảm xúc của riêng mình. Ngay cái sự “viết” của Lê Bá Dương cũng khác người, khi có cảm xúc anh tự nghĩ ra thơ rồi nhập tâm luôn, khi nào có dịp mới viết lại vào sổ tay, nhật ký. Bài thơ Lời người bên sông được nhiều người yêu thích cũng ra đời trong một trường hợp đặc biệt như thế. Chiều 27-7-1987, sau khi thả hoa cho đồng đội, anh ngồi lặng bên bờ sông Thạch Hãn. Nhìn mái chèo hối hả khuấy tung bọt nước đưa thuyền ngược dòng lên chợ Quảng Trị, anh chạnh lòng nghĩ thân xác bạn bè, đồng đội đang nằm lặng lẽ ở đâu đó dưới đáy sông kia mà không khỏi xót xa. Tự nhiên trong lòng anh “bật” lên những câu thơ khắc khoải: Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/Có tuổi hai mươi thành sóng nước/Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm. Có thể nói, bài thơ thấm đẫm nghĩa tình đồng đội này đã chạm đến nỗi đau tận cùng của sự hy sinh mất mát trong chiến tranh, làm rung động lòng người. Ai đó dẫu có tâm hồn “sắt đá” bao nhiêu đi nữa, nghe những câu thơ - “lời thỉnh cầu” ấy cũng phải mềm lòng. Bài thơ là tiếng lòng chung của mọi người, nên được nhiều người yêu thích truyền miệng dù đôi khi không biết tác giả là ai. Bây giờ thi thoảng Lê Bá Dương lại nhận được một cuộc điện thoại từ đâu đó gọi để hỏi về bài thơ. Thậm chí có khách hàng ở Phú Yên gọi lên tổng đài 108 đề nghị cung cấp nguyên văn bài thơ, tên, số điện thoại của tác giả… Riêng ở Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị, những câu thơ ấy được đặt bên cạnh bức ảnh ghi lại cảnh thả hoa trên sông Thạch Hãn để tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Đó cũng coi như hạnh phúc, sự may mắn với Lê Bá Dương - người chiến sĩ thành cổ Quảng Trị năm xưa.

Với Lê Bá Dương, thơ không phải là một cái gì quá cao xa, mà đó là tiếng lòng, là cảm xúc chân thật của mỗi người. Mỗi bài thơ của Lê Bá Dương luôn gắn liền với một câu chuyện thực, một sự kiện mà anh đã trải qua. Bài thơ nhiều khi giống như một trang nhật ký viết bằng văn vần. Đêm 27-7-1987, Lê Bá Dương một mình vào ngủ đêm với các đồng đội đã hy sinh giữa Thành cổ Quảng Trị. Nhìn ánh sáng lập lòe của những con đom đóm trên thảm cỏ hoang vắng, anh cứ ngỡ như mắt bạn ngày xưa đang về: Giấc ngủ chập chờn giữa Thành cổ/Nhòa trong sáng xanh đom đóm bay/Đồng đội ơi, bao người nằm lại/Đã về thức cùng tôi đêm nay… (Đêm ngủ với đồng đội ở Thành cổ Quảng Trị). Trong thơ của Lê Bá Dương luôn đầy nỗi nhớ nhung, hoài niệm. Hình ảnh Thành cổ Quảng Trị cứ trở đi trở lại trong thơ anh như một nỗi ám ảnh, một kỷ niệm bi thương và oai hùng của một thời trai trẻ. Đêm Quảng Trị một thời hoa lửa/Tuổi hai mươi, đồng đội hóa hồn/Chiều Quảng Trị ngày về vắng bạn/Nén hương lòng, đốt cháy hoàng hôn (Quảng Trị ngày về). Cũng phải thôi, khi bao đồng đội của anh đã nằm lại ở đất này, một phần máu thịt của anh cũng nằm lại ở đất này. Không chỉ có nỗi tiếc thương những đồng đội đã hy sinh ở tuổi đôi mươi, thơ anh còn có cả nỗi nhớ về những tình cảm lãng mạn của người lính. Thư về phương ấy là bài thơ như thế: Thư viết xong rồi định gửi/Dùng dằng nửa muốn trao tay/Chạnh lòng nghiêng về phương ấy/Hiếu giang ai biết vơi đầy/Thì vẫn sông quê vẫn chảy/Dùng dằng bến đục bến trong/Ta ngàn thu chiếc lá/Trôi xuôi, xuôi mãi theo dòng. Đó là một kỷ niệm thực của Lê Bá Dương: Năm 1970, anh gặp người nữ du kích bên dòng sông Hiếu (Quảng Trị), nhưng rồi chiến tranh đã đưa bước chân người lính đi mãi. Năm 1975 hòa bình lập lại, anh muốn gặp lại cô du kích ngày xưa nhưng thư viết rồi không dám gửi vì không biết địa chỉ, lại e biết đâu người ấy đã có chồng? Chút tình thoáng qua đã trở thành kỷ niệm đẹp trong đời người lính.

15 tuổi đã trốn gia đình nhập ngũ, 15 tuổi 49 ngày trở thành dũng sĩ diệt Mỹ, thế nhưng tâm hồn Lê Bá Dương không chai sạn vì đạn bom, không hề xơ cứng vì những mưu sinh của đời thường mà vẫn luôn mẫn cảm trước sự đổi thay của cuộc đời. Mỗi năm anh vẫn đôi ba lần “hành hương” về Quảng Trị để thăm lại chiến trường xưa, thăm lại những đồng đội cũ dù đó là người còn hay mất.  

XUÂN THÀNH