10:56, 08/05/2024

Đại tướng Tổng Tư lệnh nhận định ý nghĩa của Chiến dịch Điện Biên Phủ

Trận đại thắng của quân ta ở Điện Biên Phủ đã quyết định số phận của kế hoạch Na-va. Kế hoạch Na-va đã hoàn toàn thất bại, âm mưu mở rộng chiến tranh Việt - Khơ-me - Pa-thét Lào của bọn thực dân hiếu chiến Pháp và can thiệp Mỹ đã bị một đòn thất bại rất nặng.

I - Một chiến thắng vĩ đại

“Trận Điện Biên Phủ là một chiến thắng vĩ đại từ trước đến nay chưa từng có trong lịch sử đấu tranh vũ trang của Quân đội nhân dân Việt Nam, là một thất bại lớn nhất của đế quốc chủ nghĩa Pháp trong lịch sử chiến tranh xâm lược thuộc địa của chúng.

Chỉ đứng về mặt tiêu diệt sinh lực mà nói thì quân ta đã tiêu diệt ở Điện Biên Phủ 21 tiểu đoàn chủ lực của địch, cộng 16.000, tức là hai phần năm toàn bộ chủ lực cơ động mà tướng Na-va đã ra sức tập trung ở Bắc Bộ vào đầu Thu Đông 53. Chủ lực của địch lại bị tiêu diệt trong một tập đoàn cứ điểm kiên cố nhất của chúng, được tăng cường phòng ngự với những vũ khí và phương tiện tối tân do đế quốc chủ nghĩa Mỹ viện trợ cho Pháp.

Về phía ta thì Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiến bộ một bước rất dài, từ chỗ tiêu diệt từng tiểu đoàn của địch trong công kiên tiến tới tiêu diệt 21 tiểu đoàn của địch trong một tập đoàn cứ điểm, từ chỗ đánh công kiên quy mô nhỏ đến chỗ đánh công kiên có tính chất trận địa quy mô tương đối lớn có trọng pháo và cao xạ pháo phối hợp. Trong trận Điện Biên Phủ quân ta đã có một tinh thần chiến đấu dũng cảm gan dạ, liên tục, một tinh thần chịu đựng gian khổ và khắc phục khó khăn rất cao.

Lễ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu: TTXVN 
Lễ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu: TTXVN 

Trải qua 8 năm kháng chiến trường kỳ và gian khổ quân ta tiêu diệt trên 40 vạn quân địch, ngày nay quân ta lại đại thắng ở Điện Biên Phủ, ý nghĩa sâu xa nhất của trận Điện Biên Phủ là:

Quân đội nhân dân Việt Nam nhất định chiến thắng được mọi kẻ xâm lược, vì quân đội đó là quân đội của nhân dân, chiến đấu vì chính nghĩa vì độc lập và hòa bình, có Hồ Chủ tịch, có Đảng Lao động Việt Nam, có Chính phủ nhân dân Việt Nam lãnh đạo, lại dựa vào một hậu phương vững chắc nhất là từ khi hàng triệu nông dân đã được phát động, cuộc cải cách ruộng đất đã bắt đầu. Ngược lại bọn thực dân hiếu chiến Pháp và bọn đế quốc can thiệp Mỹ nhất định bị đánh bại, vì chiến tranh của chúng là chiến tranh xâm lược, phi chính nghĩa, không những nhân dân Việt Nam và Khơ-me, Pa-thét Lào kiên quyết chống lại, mà nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ và nhân dân tiến bộ toàn thế giới đều kiên quyết chống lại”.

II - Chiến thắng Điện Biên Phủ với chiến thắng Đông Xuân trên khắp chiến trường toàn Đông Dương

“Điện Biên Phủ là trung tâm điểm của toàn chiến trường Đông Dương trong suốt mùa Đông 53 và mùa Xuân năm nay; muốn nhận rõ ảnh hưởng của trận Điện Biên Phủ đối với ta cũng như đối với địch, chúng ta không thể tách rời mặt trận Điện Biên Phủ với các mặt trận khác khắp chiến trường 2 nước bạn Khơ-me và Pa-thét Lào.

“Chúng ta còn nhớ: vào giữa năm 53, ngày sau khi bị thất bại và bắt buộc phải đình chiến ở Triều Tiên, đế quốc chủ nghĩa Mỹ đã lấy Đông Dương để làm nơi tích cực can thiệp, kéo dài và mở rộng chiến tranh, hòng biến Đông Dương thành căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công các nước Đông Nam Á. Bọn đế quốc chủ nghĩa Mỹ gây chiến đã tiến tới một bước cấu kết chặt chẽ với bọn thực dân hiếu chiến Pháp và bọn bù nhìn tay sai để thực hiện âm mưu nói trên. Chúng định ra kế hoạch Na-va, mong tiêu diệt phần lớn chủ lực của ta, đánh chiếm phần lớn lãnh thổ của ta, đồng thời tiêu diệt quân đội giải phóng Khơ-me và Pa-thét Lào đánh chiếm hoàn toàn hai nước bạn Khơ-me và Pa-thét Lào. Đó là kế hoạch giải quyết chiến tranh trong 18 tháng mà Đơ-lét và Bi-đôn thường nói đến.

Để thực hiện kế hoạch trên, bước vào Thu Đông 53, địch đã tập trung 45 tiểu đoàn cơ động ở Bắc Bộ, tăng viện thêm binh lực ở Pháp sang tích cực khuếch trương ngụy quân, mong chống đỡ với mọi cuộc tấn công của ta đồng bằng, đồng thời mưu đánh chiếm toàn bộ Liên khu 5, bình định miền Nam Việt Nam, quét sạch mọi lực lượng kháng chiến ở Khơ-me và Pa-thét Lào, sau đó trở lại mở cuộc tấn công lớn có tính chất quyết định ở Bắc Bộ.

Trong kế hoạch này, Điện Biên Phủ có 1 vị trí rất quan trọng. Địch đã đánh chiếm Điện Biên Phủ, dự định trong vòng tháng 1 năm nay từ Điện Biên Phủ đánh lấy lại Nà Sản, trước mặt thì để buộc chủ lực ta phải đối phó trên hai mặt trận Tây Bắc và đồng bằng, sau này thì để dùng Điện Biên Phủ làm một căn cứ vững chắc tiến đánh Việt Bắc của chúng ta, trong khi đại quân của chúng từ đồng bằng đánh lên. Âm mưu của chúng thực là thâm độc, ta không nên khinh thường.

Nhân dân Mường Phăng tặng quà các chiến sĩ sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu: TTXVN 
Nhân dân Mường Phăng tặng quà các chiến sĩ sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu: TTXVN 

Tuy nhiên, bọn đế quốc Pháp Mỹ đã không tính đến tinh thần kháng chiến bất khuất của quân đội và nhân dân 3 nước Việt, Khơ-me, Pa-thét Lào, chúng không tưởng tượng được rằng trong lúc chúng dồn chủ lực ra đồng bằng Bắc Bộ và Điện Biên Phủ thì Quân đội nhân dân Việt Nam và quân đội Giải phóng Khơ-me, Pa-thét Lào có thể tấn công chúng vào những hướng chúng sơ hở.

Thực vậy, quân ta đã tấn công lên Lai Châu, giải phóng Lai Châu buộc địch phải phân tán thêm chủ lực lên Điện Biên Phủ để chống giữ.

Quân đội Giải phóng Pa-thét Lào đã tấn công vào Thà-khẹt và Hạ Lào, giải phóng Thà-khẹt và cao nguyên Bô-lô-ven buộc địch phải phân tán chủ lực lên Sê-nô.

Quân ta đã tấn công vào phía Bắc Tây Nguyên giải phóng Công-tum buộc địch phải tăng thêm lực lượng cho Ban Mê Thuột và Tuy Hòa mà chúng vừa đánh chiếm.

Quân đội giải phóng Pa-thét Lào lại tấn công lớn vào Thượng Lào, giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, buộc địch phải phân tán chủ lực lên Luang Pra-bang.

Vào đầu tháng 3 năm nay, Na-va tưởng rằng sức tấn công của quân ta và quân đội giải phóng Khơ-me, Pa thét Lào không còn mạnh nữa, chỉ trong vòng vài tuần lễ nữa thì tình thế sẽ thay đổi quân Pháp sẽ phản công, và ta nhất định không dám đánh Điện Biên Phủ.

Nhưng đến khi Na-va đã mang chủ lực tung ra bốn phương rồi, ngày 12 tháng 3 lại phân tán một bộ phận chủ lực nữa đổ bộ lên Quy Nhơn, thì ngay hôm sau 13-3 quân ta mở cuộc tấn công lớn vào Điện Biên Phủ. Cũng trong thời gian đó quân ta đánh mạnh ở đồng bằng sơ hở, nhiều lần cắt đường Hải Phòng - Hà Nội, quân giải phóng Khơ-me thì đánh vào Đông Khơ-me và Tây Bắc Khơ-me.

Na-va đã phải vội vã rút lực lượng các nơi về để tăng viện cho Điện Biên Phủ. Bọn hiếu chiến Pháp và bọn đế quốc Mỹ gấp rút tập trung lực lượng, nào là cho viện binh từ Pháp sang, nào là tăng phi cơ oanh tạc và vận tải nhân viên không quân của Mỹ sang Đông Dương, nào là chở vũ khí đạn dược từ Phi-luật-tân và Nhật Bản sang chúng kiên quyết giữ cho kỳ được Điện Biên Phủ. Nhưng chiến sự tiếp diễn, Điện Biên Phủ càng ngày càng nguy ngập. Tăng quân thêm nữa thì sợ bị tiêu diệt nhiều hơn, đánh vào hậu phương ta thì đã có kinh nghiệm thất bại ở Phú Thọ, mang bộ đội lớn từ Pa-thét Lào đánh sang thì đã có kinh nghiệm thất bại ở sông Nậm Hu. Rút cục, như Na-va đã phải thú nhận, bọn hiếu chiến Pháp chỉ còn một đường là ỷ lại vào tác dụng của không quân Mỹ. Nhưng không quân Mỹ với hàng vạn tấn bom, hàng vạn lít na-pan trút xuống vùng rừng núi Điện Biên Phủ đã tỏ ra ít hiệu quả, trước tinh thần chiến đấu anh dũng và gan dạ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Quân ta tiêu diệt Điện Biên Phủ.

Thế là sau 1 năm thực hiện kế hoạch Na-va, cục diện quân sự ở Đông Dương đã thay đổi nhiều, nhưng không phải tay đổi có lợi cho địch mà thay đổi có lợi cho ta. Địch mưu tăng cường chủ lực và khuếch trương ngụy quân, nhưng sinh lực của chúng đã bị tiêu diệt trên 8 vạn từ tháng 11-1953 đến nay. Địch mưu giành lại chủ động, nhưng Na-va chỉ giành được một lối chủ động phân tán binh lực khắp mọi nơi, chủ động mang quân lên Điện Biên Phủ để bị ta tiêu diệt. Địch mưu đánh chiếm phần lớn lãnh thổ Việt Nam, Khơ-me, Pa-thét Lào nhưng đến ngày nay thì Phú Thọ, Thanh Hóa của ta vẫn vững chắc, ở địch hậu Bắc Bộ thì căn cứ du kích và vùng du kích của ta chiếm rộng đến 2 phần 3 đất đai ở Nam Bộ thì vùng tự do và vùng du kích của ta đã được mở rộng ở Liên khu 5 địch đánh chiếm Quy Nhơn thì ta giải phóng Công-tum. Ở nước bạn Pa-thét Lào thì vùng tự do của Pa-thét Lào ngày nay đã chiếm trên 1/2 đất đai, có trên 1 triệu dân, phạm vi kiểm soát của địch bị thu lại trong vùng tam giác Xiêng Khoảng – Luang Prabang - Vientiane và 1 tuyến dài dọc sông Cửu Long, ở nước bạn Khơ-me thì khu giải phóng đã được mở rộng.

Còn trận quyết định mà bọn đế quốc Pháp-Mỹ thường nói đến thì phải chăng đó là trận Điện Biên Phủ. Nhưng trận Điện Biên Phủ không quyết định thắng lợi của chúng, mà trận Điện Biên Phủ đã quyết định số phận của kế hoạch Na-va. Kế hoạch Na-va đã hoàn toàn thất bại, âm mưu mở rộng chiến tranh của bọn hiếu chiến Pháp và bọn can thiệp đế quốc chủ nghĩa Mỹ đã bị một đòn thất bại rất nặng.

III - Chiến thắng Điện Biên Phủ với Hội nghị Giơ-ne

“Tại hội nghị Giơ-ne, lập trường của phái đoàn nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là độc lập và hòa bình thực sự, đúng như lời Hồ Chủ tịch đã nhiều lần tuyên bố. Trên mặt trận Điện Biên Phủ cũng như trên các mặt trận khác khắp Việt Nam và Khơ-me, Pa-thét Lào, quân ta và quân đội giải phóng Khơ-me, Pa-thét Lào đang chiến đấu vì độc lập và hòa bình thực sự. Chỉ có khi nào bàn tay gây chiến đẫm máu của bọn hiếu chiến Pháp và bọn can thiệp Mỹ bị chúng ta chặn lại trên chiến trường thì lúc đó chúng ta mới có độc lập và hòa bình thực sự. Chúng ta cần biết rằng bọn thực dân hiếu chiến Pháp và bọn can thiệp Mỹ càng thất bại nặng, càng ra sức cố gắng, đế quốc chủ nghĩa Mỹ hiện đang mưu trực tiếp nắm lấy các chính phủ bù nhìn và đang đẩy các chính phủ bù nhìn đó bắt bớ hàng vạn thanh niên đi chết thay cho chúng, chúng đang tiếp tục âm mưu dùng người châu Á đánh người châu Á của Ai-sen-hao-ơ. Chúng ta phải nhận rõ âm mưu thâm độc của địch, phải tỉnh táo đề phòng, tích cực củng cố và khuếch trương thắng lợi vĩ đại của Điện Biên Phủ, của chiến dịch Đông Xuân. Chúng ta phải làm đúng lời dạy của Hồ Chủ tịch trong bức thư Người đã gửi các cán bộ và chiến sĩ Điện Biên Phủ:

“Thắng lợi Điện Biên Phủ tuy to lớn nhưng mới là thắng lợi lớn đầu tiên. Chúng ta kiên quyết kháng chiến, tranh lấy độc lập thống nhất, dân chủ, hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn”.

(Trích Báo Quân đội nhân dân số 148, xuất bản tại mặt trận, ngày 16-5-1954)

Theo qdnd.vn