02:03, 29/03/2011

Bảo tồn thành công nhiều nguồn gen các loài thủy sản quý hiếm

Hiện nay, do áp lực khai thác và nuôi trồng thủy sản quá lớn, các đối tượng nuôi trồng có giá trị kinh tế đủ chất lượng cho tạo giống ở nước ta rất khan hiếm.

Hiện nay, do áp lực khai thác và nuôi trồng thủy sản (NTTS) quá lớn, các đối tượng nuôi trồng có giá trị kinh tế đủ chất lượng cho tạo giống ở nước ta rất khan hiếm. Việc Viện Nghiên cứu NTTS III bảo tồn thành công nhiều nguồn gen các loài thủy sản nước mặn, lợ quý hiếm đã góp phần tái tạo quần đàn, phát triển bền vững nghề nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản (BVNLTS) ở Việt Nam.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo tồn nguồn gen các giống loài thủy sản nước lợ, mặn; năm 2004, Bộ Thủy sản (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phối hợp với Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường đã giao cho Viện Nghiên cứu NTTS III xây dựng và thực hiện chương trình bảo tồn nguồn gen và giống các loài thủy sản nước lợ, mặn. Viện được giao nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học; lưu giữ, tái tạo, phát triển nguồn gen và giống các loài thủy sản nước lợ, mặn quý hiếm, có giá trị kinh tế và có ý nghĩa khoa học nhằm góp phần tạo nguồn nguyên liệu cho chương trình sản xuất giống, phát triển bền vững nghề NTTS. Đến nay, Viện đã tiến hành thu thập và lưu giữ thành công hàng chục nguồn gen cá bản địa quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Theo đó, Viện tiến hành nghiên cứu các chỉ tiêu, đánh giá mức độ đa dạng di truyền đối với các loài cá mú cọp, cá song chanh, cá chìa vôi…; xây dựng cơ sở dữ liệu tương đối hoàn chỉnh bao gồm các thông tin về hình thái, phân bố, môi trường sống, nhu cầu về dinh dưỡng và tập tính sinh sản của tôm mũ ni trắng, cá song vua, song chanh, song dẹt, song da báo, cá mú cọp, cá chìa vôi và cá mó. Những thông tin này đã được sử dụng trong các nghiên cứu về phân loại học, ngư loại học, di truyền quần thể, di truyền chọn giống, sinh thái môi trường, kỹ thuật sinh sản nhân tạo nhằm bổ sung nguồn giống góp phần tái tạo quần đàn, phát triển nghề nuôi trồng và BVNLTS.

Trong thời gian nghiên cứu, thực nghiệm, Viện đã kết hợp với ngư dân, người khai thác, các doanh nghiệp tiến hành thu mua các loài thủy sản tươi sống trên các vùng biển trong cả nước nhằm xác định nguồn gốc, thu thập mẫu vật của các loài cần được lưu giữ. Mặt khác, các nhà khoa học còn tiến hành thu thập những kinh nghiệm truyền thống của địa phương có liên quan đến nguồn gen thu thập được như: đặc điểm phân loại về hình thái bên ngoài, khu vực phân bố, mùa vụ sinh sản, tỷ lệ bắt gặp… Những thông tin này giúp cho việc hoạch định kế hoạch sử dụng bền vững nguồn gen, bảo vệ các loài bản địa và chia sẻ hợp lý lợi ích có được từ các nguồn gen thu thập được bảo tồn. Ngoài ra, các mẫu vật sau khi thu được nuôi thuần hóa trong ao, bể hay lồng bè đều được chăm sóc, theo dõi theo chế độ riêng nhằm tìm ra phương pháp lưu giữ tốt nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của chúng. Các nguồn gen quý hiếm được tiến hành nghiên cứu bổ sung vào nguồn gen bảo tồn làm đa dạng thêm giống loài, là nền tảng cho việc sinh sản nhân tạo và phát triển đối tượng nuôi; phát triển và đưa vào khai thác các nguồn gen cũ, tạo dòng thuần cho chất lượng con giống tốt hơn; tiến hành khai thác, trao đổi nguồn gen của một số loài giữa các vùng miền trong cả nước cũng như nước ngoài nhằm đa dạng, phong phú nguồn gen trong quần đàn cá nuôi trong nước.

Ở Việt Nam, hiện đã có những khu bảo tồn tự nhiên, điển hình như Khu Bảo tồn biển Hòn Mun tại vịnh Nha Trang. Đây là hình thức bảo tồn rất hiệu quả và mang tính khoa học cao, nó còn có giá trị kinh tế lớn khi kết hợp với ngành du lịch sinh thái. Tuy nhiên, phần lớn các loài trong danh sách được lưu giữ gen ở Viện cho đến nay vẫn chưa được chủ động trong quá trình sản xuất giống nhân tạo. Chính vì thế, mục tiêu vủa Viện trong thời gian tới là tiến hành nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của từng loài, đồng thời tạo nguồn bố mẹ cho nghiên cứu sinh sản nhân tạo để phục vụ cho mục đích khai thác nguồn gen. Nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen và giống các loài thủy sản nước lợ, mặn đang và sẽ góp phần duy trì, phát triển nghề NTTS một cách bền vững.

VŨ CA