08:08, 04/08/2010

Cần có giải pháp bền vững

Những năm gần đây, nghề nuôi tôm hùm lồng ở Khánh Hòa phát triển khá rầm rộ. Thế nhưng, do phát triển ồ ạt, thiếu quy hoạch nên môi trường nuôi đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, hệ lụy là tôm chết hàng loạt vì dịch bệnh, đẩy ngư dân lâm vào cảnh điêu đứng. Bên cạnh đó, do không có sự quản lý và bảo tồn, nguồn lợi tôm hùm giống ngoài tự nhiên đang dần bị khai thác cạn kiệt.

Những năm gần đây, nghề nuôi tôm hùm lồng ở Khánh Hòa phát triển khá rầm rộ. Thế nhưng, do phát triển ồ ạt, thiếu quy hoạch nên môi trường nuôi đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, hệ lụy là tôm chết hàng loạt vì dịch bệnh, đẩy ngư dân lâm vào cảnh điêu đứng. Bên cạnh đó, do không có sự quản lý và bảo tồn, nguồn lợi tôm hùm giống ngoài tự nhiên đang dần bị khai thác cạn kiệt.

Khánh Hòa hiện có gần 30 nghìn lồng nuôi tôm hùm, tập trung chủ yếu ở các huyện Ninh Hòa, Vạn Ninh, thị xã Cam Ranh và TP. Nha Trang. Hàng năm, sản lượng thu hoạch từ tôm hùm lồng đạt khoảng hơn 1.000 tấn với thu nhập hàng trăm tỷ đồng. Những năm gần đây, bệnh sữa trên tôm hùm lồng đã gây thiệt hại cho người nuôi tôm khoảng hơn 113 tỷ đồng, nhiều gia đình lâm vào cảnh trắng tay, nợ nần chồng chất. Hiện nay, tuy tôm hùm bán ra thị trường với giá rất cao (1,2 triệu đồng/kg), nhưng do không chủ động được nguồn giống và vì lo lắng dịch bệnh tôm tái phát nên người nuôi dè dặt, thả nuôi cầm chừng.

Do phong trào nuôi tôm hùm lồng phát triển rầm rộ, nguồn con giống khai thác ngoài tự nhiên càng khan hiếm.

Nghề nuôi tôm hùm lồng phát triển, kéo theo đó là sự phát triển của nghề khai thác tôm hùm giống cung cấp cho các vùng nuôi. Những loài tôm là đối tượng nuôi chính như: tôm hùm bông, tôm hùm đá càng, tôm con được gia tăng cường độ đánh bắt, khai thác. Mặt khác, trong quá trình nuôi, tỷ lệ tôm chết do bệnh dịch khá lớn làm nhu cầu con giống ngày một tăng, dẫn đến việc khai thác tôm hùm giống trở nên quá mức. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III, tại Khánh Hòa, việc khai thác tôm hùm giống tập trung chủ yếu ở 3 khu vực. Trong đó, vùng biển Đầm Môn - Đại Lãnh với diện tích khai thác 11,7km2; vùng biển đầm Nha Phu - vịnh Nha Trang với diện tích khai thác gần 29,1km2; vùng biển Bãi Dài (Cam Ranh) với diện tích gần 15,5km2. Loài tôm hùm khai thác gồm: tôm hùm bông, tôm hùm đá, tôm hùm tre, tôm hùm đỏ và tôm hùm sỏi. Tuy nhiên, tôm hùm bông và tôm hùm đá là 2 loài nuôi phổ biến và có giá trị kinh tế nên được người khai thác chú ý hơn so với các loài khác. Mùa vụ đánh bắt tôm hùm giống thường bắt đầu từ tháng 11 năm trước và kéo dài đến tháng 4 năm sau.

Tỷ lệ các kích cỡ tôm hùm giống được khai thác từ 7 - 8mm chiều dài giáp đầu ngực, chúng có màu trắng hoặc trắng hồng, chiếm khoảng 78 - 83%; tôm giống cỡ lớn hơn 9 - 11mm chiều dài giáp đầu ngực, được gọi là tôm “bọ cạp”, chiếm 15 - 16%; một số ít tôm con cỡ lớn được khai thác chủ yếu bằng lặn bắt chiếm 2 - 6%. Hiện nay, ngư dân khai thác tôm hùm giống chủ yếu dưới các hình thức bằng mành, bẫy và lặn. Trong đó, khai thác bằng mành có tỷ lệ cỡ tôm “trắng” và “trắng hồng” là 100%; khai thác bằng bẫy có cỡ tôm “trắng hồng” chiếm 95%, cỡ tôm “bọ cạp” chiếm 5%; khai thác bằng lặn có cỡ tôm “trắng” và “trắng hồng” chiếm 20 - 30%, cỡ tôm “bò cạp nhỏ” chiếm 50 - 60% và những cỡ tôm lớn hơn chiếm 15 - 25%. Giai đoạn 2005 - 2007, sản lượng khai thác tôm hùm giống tại Khánh Hòa dao động khoảng 600 - 700 ngàn con. Từ năm 2007 đến nay, do khai thác quá mức, sản lượng tôm hùm giống chỉ đạt từ 200 - 300 ngàn con và đang có xu hướng giảm dần theo từng năm.
Theo quy định của Luật Thủy sản và Pháp lệnh Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tôm hùm chỉ được phép khai thác khi cân nặng trung bình từ 150g trở lên; từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm, thời điểm tôm hùm đang kỳ sinh sản, không được phép khai thác dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu đơn vị, tổ chức, cá nhân nào vi phạm sẽ bị tịch thu toàn bộ phương tiện đánh bắt, số tôm thu được sẽ thả về biển và phạt hành chính từ 500 ngàn đến 5 triệu đồng/vụ, tùy vào lượng tôm khai thác nhiều hay ít. Tuy nhiên, nghề khai thác tôm hùm trên địa bàn tỉnh đang diễn ra tự nhiên, công khai mà không hề có sự giám sát của cơ quan chức năng và chính quyền địa phương. Đây cũng là nguyên nhân khiến nguồn lợi tôm hùm giống có nguy cơ cạn kiệt.

Không thể phủ nhận nguồn lợi tôm hùm giống tại Khánh Hòa đã mang lại những lợi ích đáng kể cho ngư dân vùng ven biển và hình thành nghề khai thác giống cung cấp cho vùng nuôi tôm hùm tại các địa phương. Tuy nhiên, Nhà nước và chính quyền địa phương cần có chính sách thích hợp như: Quy định về thời gian, mùa vụ, khu vực khai thác có thời hạn, bảo vệ nơi cư trú trọng điểm và vùng sinh thái tự nhiên; đồng thời nâng cao ý thức của người dân khi sử dụng nguồn lợi tôm hùm nhằm khai thác hợp lý, bảo vệ và phát triển bền vững nguồn lợi tôm hùm giống tự nhiên.

CHÂU AN KHÁNH